Kiến Thức Phật Pháp
Đọc tụng kinh Pháp Hoa đúng pháp
HT. THÍCH TRÍ QUẢNG
(Bài giảng tại trường hạ tổ đình Giác Lâm, TP.HCM, ngày 25-6-2015)
Ngược dòng lịch sử trở về quá khứ, khi Phật thành Vô thượng Bồ-đề tại Bồ-đề đạo tràng, Ngài thuyết kinh Hoa nghiêm, nhưng chỉ có chư Phật hiểu và các vị Bồ-tát từ Thập địa trở lên mới có thể lãnh hội.
Hàng Nhị thừa trở xuống không biết, vì trí giác của Phật thành đạo là đỉnh cao của tâm linh, nên khi đó, Phật thuyết trong thiền định. Kinh Nguyên thủy diễn tả là Phật yên lặng không nói. Theo kinh Đại thừa, không nói là nói, tức Phật không sử dụng ngôn ngữ, nhưng Ngài sử dụng pháp âm.
Về mặt ngôn ngữ thì còn trong vòng tương đối. Vì vậy, có nhiều người sử dụng ngôn ngữ để truyền bá pháp Phật, nhưng ngộ được giáo pháp thì ít người được. Pháp ngữ quan trọng và muốn nhận được pháp ngữ, cần nương vào ngôn ngữ, văn tự. Nhưng nếu kẹt nhiều vào ngôn ngữ, văn tự, chắc chắn không thể đạt kết quả tốt.
Khi Phật Niết-bàn, Ngài mới thuyết kinh Pháp hoa. Thời pháp đầu tiên là kinh Hoa nghiêm và kết thúc là Pháp hoa, Phật cũng trở về trạng thái yên lặng, mới có pháp chân thật. Ở khoảng giữa, Phật nói kinh A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã. Chỉ có Phật giáo Đại thừa mới ghi nhận điều này và ý này được Thiên Thai Trí Giả đại sư phán giáo năm thời kỳ như vậy.
Còn Phật giáo Nguyên thủy không ghi nhận năm thời kỳ Phật nói pháp theo Đại thừa, mà chỉ ghi nhận rằng Phật thuyết Tứ Thánh đế lần đầu ở Lộc Uyển và có năm Tỳ-kheo đắc La-hán. Từ đó mới có giáo pháp trên thế gian và trong suốt thời gian dài, Phật giáo hóa độ sanh cho đến Phật Niết-bàn ở Sa la song thọ là đầy đủ một đời Phật thuyết pháp.
Kinh Nguyên thủy chỉ ghi nhận như vậy và mở thêm cho chúng ta thấy khi các Tỳ-kheo tập hợp, có Di Lặc xuất hiện. Di Lặc hành Bồ-tát đạo và ngài được Phật Thích Ca thọ ký thành Phật. Các Tỳ-kheo khác, hay tất cả mọi người chỉ hành Thanh văn đạo, đạt đến quả vị cao nhất của Thanh văn là A-la-hán.
Điểm này mở ra hướng mới cho người tu Đại thừa đi sâu tìm giáo nghĩa. Các người tu theo Nam truyền Phật giáo đều công nhận Phật Thích Ca và Di Lặc do hành Bồ-tát đạo mà thành Phật. Còn Tăng Ni tu Thanh văn đạo không thành Phật. Vì hành Bồ-tát đạo đòi hỏi năng lực siêu nhiên, cho nên Thanh văn không dám nghĩ đến, huống chi là làm, đương nhiên không thể làm được; đó làm điểm khác biệt giữa Thanh văn và Bồ-tát. Di Lặc làm gì mà được Phật giáo Nguyên thủy công nhận làm Phật, nghĩa là hơn Thánh Tăng.
Theo Phật giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Đại thừa cũng đều ghi rằng Phật đến dòng sông Ni Liên ném bát xuống. Ngài phát nguyện rằng nếu Ngài đắc Vô thượng Bồ-đề, cho bát này trôi ngược dòng về nguồn. Và chư Thiên đã đỡ bình bát, đưa về nguồn.
Trên bước đường tu, điều này là ấn chứng rất quan trọng, không phải tu là được. Nếu không có chư Thiên hộ trì, khó đạt tới điểm tối hậu. Riêng chúng ta nếu được chư Thiên hộ trì, mới hành Bồ-tát đạo được.
Khi Phật xuất gia, từ bỏ gia đình, quyến thuộc, chỉ còn một thân, một bát, một y, Ngài vào rừng ẩn tu. Thời gian này là tu Thanh văn đạo, ẩn cư, ẩn tu, tức xuất gia, tu cho chính bản thân mình và đến thời cuối cùng, chấm dứt Thanh văn đạo là đắc Thánh quả A-la-hán.
Chúng ta phải trải qua Thanh văn đạo, chứng A-la-hán và từ tâm thanh tịnh của La-hán phát tâm Đại thừa hành Bồ-tát đạo, mới có nguyện độ sanh.
Giai đoạn một, xuất gia là phải lo phần mình, gọi là tự độ. Vì vậy, Phật nói rằng Ngài đi tìm con đường cứu độ chúng sanh và tìm được, mới phát tâm cứu chúng sanh. Và Ngài phát nguyện ném bát xuống sông, xem mình hành Bồ-tát đạo được không.
Theo dấu chân Phật, ngày nay, chúng ta muốn làm việc lớn cũng có phát nguyện xem có ứng hay không, không ứng thì không làm được. Riêng tôi, muốn làm gì là nguyện và tôi làm thí nghiệm xem việc này có thành không. Ngày xưa, người ta có truyền thống, trong chùa có hai thanh tre, đối trước bàn Phật, hay bàn Tổ, hoặc cầu thần thánh, báo ứng xem việc được hay không, bằng cách ném hai thanh tre lên, nếu một thanh ngửa, một thanh úp là được. Hoặc dùng hai đồng xu ném lên, một đồng úp, một đồng ngửa là thần thánh chứng.
Phật ném bát xuống sông. Bát bằng đất mà rớt xuống sông thì phải chìm, nếu không chìm cũng phải trôi xuôi dòng, nhưng bát của Phật ném xuống sông chẳng những không chìm, mà bát nổi lên và trôi ngược dòng về nguồn.
Tôi nhận ra ý này rằng hành Bồ-tát đạo thật gian nan. Tìm giải thoát cho mình thì dễ, nhưng làm cho người hiểu mình, làm cho họ giải thoát được và có kết quả như mình, khó vô cùng. Thí dụ tôi hoằng pháp trên ba mươi năm, đào tạo không biết bao nhiêu giảng sư. Mong họ làm như tôi, nhưng quả thật khó quá, mỗi người đều làm theo họ, không làm như mình được.
Vì vậy, hành Bồ-tát đạo, độ chúng sanh rất khó. Ngược dòng sinh tử, lên Niết-bàn không đơn giản. Vì vậy, trong kinh Pháp hoa, phẩm 11, tháp Đa Bảo xuất hiện, Phật nói lúc này mới có kinh Pháp hoa. Ai muốn phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-tát đạo trong tương lai thì lúc này nên phát nguyện. Như vậy, từ phẩm 1 đến phẩm thứ 10 chưa có kinh Pháp hoa, vì Phật nói đến phẩm thứ 11 mới có kinh Pháp hoa, nhưng chúng ta cũng không thấy kinh Pháp hoa. Và Phật nói tiếp phẩm Trì thứ 13 và phẩm An lạc hạnh thứ 14, chúng ta cũng không thấy kinh Pháp hoa.
Trở lại vấn đề thọ ký, theo Phật giáo Nguyên thủy, Phật chỉ thọ ký Di Lặc thành Phật. Và Phật Niết-bàn, Ngài giao y bát cho Ca Diếp, bảo rằng Ca Diếp giữ y, đến khi Di Lặc hạ sanh thì giao y cho Di Lặc. Ca Diếp nhận sự huyền ký này xong và nhận y rồi, ngài đứng trước núi Kê Túc chắp tay nguyện, núi tự mở ra và ngài bước vào, núi tự khép lại. Ngài ở trong núi Kê Túc chờ Đức Di Lặc ra đời. Vì vậy, ngày nay, chúng ta tu Thanh văn, chỉ giữ y bát.
Muốn hành Bồ-tát đạo, chúng ta phải phát nguyện. Trong kinh Pháp hoa, phẩm thứ 3 và các phẩm kế tiếp, Phật thọ ký cho Xá Lợi Phất, Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na, năm trăm vị La-hán và A Nan, La Hầu La cùng hai ngàn vị từ Sơ quả đến Tam quả, đều sẽ thành Phật. Như vậy, Phật thọ ký cho các vị Thánh Tăng thành Phật.
Phật thọ ký cho hàng Thanh văn xong, mở cánh cửa cho chúng ta tu Pháp hoa, nhưng chúng ta nghĩ Thánh Tăng được Phật thọ ký, thì chúng ta không được sao. Đến phẩm thứ 10, Phật mở cánh cửa rộng thêm nữa để chúng ta có điều kiện tham gia và Ngài thọ ký cho tất cả mọi người: "Tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên long Bát bộ, người cầu Thanh văn, người cầu Bồ-tát, hay cầu Phật đạo, mà ở trước Phật nghe kinh Pháp hoa một câu, một kệ, một niệm tùy hỷ, Ta đều thọ ký Vô thượng Bồ-đề”.
Bài viết cùng chủ đề:
- MỐI LIÊN HỆ GIỮA KINH NGUYÊN THỦY & KINH HOA NGHIÊM
- Ý Nghĩa Phẩm Như Lai Thọ Lượng Thứ 16 Kinh Pháp Hoa
- Ý nghĩa phẩm Bồ-tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 kinh Pháp hoa
- ĐỨC PHẬT THUYẾT PHÁP
- Ý nghĩa phẩm Pháp sư thứ 10 KINH PHÁP HOA
- Ý nghĩa bài kệ mở đầu Kinh Pháp hoa
- Vai trò của thầy trụ trì trong thời hiện đại
- Y Phật phát huy giới thân huệ mạng người xuất gia
- Công hạnh Quan Âm
- SEN HÁI ĐẦU MÙA
- Đền ơn đáp nghĩa đúng Chánh pháp
- CỞI TRÓI THÂN TÂM giữ chánh niệm - sống trong chánh định
- Đem Phật vào lòng, đem kinh vào lòng
- Gặt hái cho được quả Sa-môn trong mùa an cư
- Tu học để phát huy ĐẠO LỰC & TRÍ TUỆ
- Sanh thân, Báo thân & Pháp thân Phật
- Con đường tâm linh của người Phật tử 2
- Quan niệm về ĐỨC PHẬT
- Tên bài Số lượt nghe
-
MS 564/ 04042021 - HN 56
-
MS 131/ 28032021 - HT 103
-
MS 130/ 21032021 - HT 65
-
MS 563/ 14032021 - HN 357
-
Lời khai thị đầu năm Tân Sửu của Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng 242
- Tên bài Số lượt nghe
-
Bổn Môn Pháp Hoa 20 18.487
-
Nghi Lễ Cúng Phật Đại Khoa 17.936
-
Trưởng Dưỡng Đạo Tâm - MS 127 14.160
-
Bổn Môn Pháp Hoa 30 13.783
-
Thiên Đường Trần Gian - MS 169 12.398