Kiến Thức Phật Pháp
Nguy hại của sự chấp trước
HT. THÍCH TRÍ QUẢNG
Chấp hay cố chấp vào một điều gì đó, còn gọi là định kiến. Chính sự
chấp trước này làm chúng ta đau khổ, cho nên coi nó là mối nguy hại cần
phải tránh. Tránh bằng cách nào ? Phật dạy một là phá chấp, tức có gì
ràng buộc thì chúng ta tìm cách phá bỏ, hai là xả chấp, chúng ta không
phá, nhưng bỏ quên để nó rơi xuống, không dính vô ta. Giống như hoa sen
mọc từ bùn nhơ, nhưng ra khỏi bùn, nó là sen mà có trút đổ lên hoa sen
cái gì thì nó cũng không bị dính nhơ và vẫn tỏa mùi hương; đó là thực
chất của tu hành theo Đại thừa, hay tu Pháp hoa. Trong khi tu theo Tiểu
thừa, chúng ta có sự đối nghịch, nên cái gì làm trở ngại thì phá nó;
nhưng từ sự phá trừ đó khiến chúng ta trở thành cố chấp.
Thật vậy, Đức Phật dạy chúng ta phá bỏ sự cố chấp, nhưng vì hiểu lầm,
chúng ta lại phá bỏ tất cả những gì không giống chúng ta, trong khi
chúng ta còn là phàm phu chưa có trí tuệ của Phật, nên sự hiểu biết của
chúng ta không chính xác. Vì vậy, chúng ta thường cố chấp rằng cái gì
không giống như hiểu biết của mình, thì sẵn sàng phá bỏ, từ đó tạo thành
thế đối lập cho đến ta không còn chỗ dung thân. Sự cố chấp như vậy dẫn
đến sai lầm tai hại. Thực tế cho thấy khi có định kiến, ban đầu là ý
thức tốt, nhưng vì cố thực hiện điều tốt này, chúng ta lại tạo thành oán
thù, trần lao, nghiệp chướng.
Nhận ra được sự nguy hại do cố chấp, chúng ta phải bỏ nó, gọi là xả
chấp. Theo kinh nghiệm của tôi, từ khi mới phát tâm cho đến nay và mãi
đến ngày thành Phật, cái gì qua rồi, thì bỏ nó về quá khứ, sẽ có được
nhận thức mới. Thật vậy, sự hiểu biết của ngày hôm qua mà chúng ta coi
là đúng, nhưng hôm nay thấy điều đó chưa đúng; như vậy, chúng ta đã có
tiến bộ. Còn cố chấp vào việc làm thì không tiến bộ được. Ngay như lời
dạy của Phật, mặc dù chúng ta tin, nhưng không chấp vào đó, vì nhận thức
được rằng Phật dùng vô số phương tiện giáo hóa để giúp chúng ta xa rời
tâm chấp trước; cho nên chấp vào phương tiện là sai lầm. Trên bước đường
tu, chúng ta nhận thấy có người vì chấp vào pháp tu mà nghiệp chướng và
phiền não mỗi lúc tăng lên. Các Phật tử nghiệm xem từ khi phát tâm học
đạo, vào chùa, lễ Phật mỗi ngày thì phiền não của mình tăng hay giảm.
Nếu phiền não tăng, phải biết chúng ta đã rơi vô chấp ngã là có cái ta
và chấp pháp là có pháp hành trì, thì kẹt vô thân và pháp, chúng ta đã
tu sai, không giải thoát. Chúng ta tạm nương bất cứ phương tiện nào của
Phật để bỏ phiền não, trần lao, nghiệp chướng và bỏ được phiền não, trần
lao là tu đúng.
Tu hành, nương vào pháp được giải thoát rồi thì pháp này cũng phải xả,
vì pháp cũng là phương tiện. Trong quá trình tu, từng bước chúng ta đi
lên. Thật vậy, Phật tu chứng và thành đạo, Ngài dạy chúng ta cách tu để
phá bỏ sự chấp trước và thăng hoa tuệ giác. Theo kinh Hoa nghiêm,
lấy trí tuệ làm chính và trí tuệ phát sanh nhờ có đối cảnh. Nếu đối
cảnh sanh tâm chấp trước thì bị đọa, nhưng đối cảnh sanh ra sự hiểu biết
chính xác gọi là tu chứng.
Tại sao chấp trước bị đọa. Khi thấy vật hay điều gì khiến chúng ta ưa
thích hay chán ghét thì hai tâm ưa thích và chán ghét đều làm chúng ta
đau khổ là bị đọa. Trên cuộc đời này, con người khổ vì gặp điều chán
ghét mà không bỏ được, hoặc điều ưa thích mà không nắm giữ được.
Đối cảnh sanh tâm là giai đoạn một. Đối cảnh vô tâm là bước thứ hai,
gọi là xả chấp. Người không tu thì luôn khởi tâm ưa thích hay ghét bỏ,
nhưng chúng ta thể nghiệm pháp Phật, không ưa không ghét, vì vật là vật,
ta là ta. Đối với việc phải trái, tốt xấu, chúng ta vô tâm. Phương tiện
của Phật mà chúng ta tiếp nhận được giúp cho chúng ta sự vô tâm, không
nghĩ đến nó thì không khổ, còn nghĩ đến là còn vướng mắc, còn chấp trước
chắc chắn phải khổ.
Bỏ là xả, nên không khổ, gọi là xả tục xuất gia, nghĩa là bỏ chấp trước
của thế gian làm chúng ta phiền não, nhiễm ô, tội lỗi. Theo Phật tu,
không có sở hữu, không nhà cửa, không tiền bạc, không tài sản, không
người thân. Bỏ hoàn toàn, chúng ta chỉ còn một bóng một hình gọi là cô
thân độc ảnh; người xuất gia luyện tập cuộc sống như vậy, không có gì,
nhưng còn thân này thì phải nuôi nó để tu hành, cho nên người tu hạn chế
ba việc ăn, mặc, ở, là sống tam thường bất túc. Người đời vì lòng tham,
nên có nhiều của cải, có người thân mà vẫn thấy thiếu. Người tu một
mình một bóng, nhưng thấy không thiếu là tri túc, biết đủ. Hoàn cảnh nào
chúng ta cũng sống được là ban đầu nương pháp Phật được giải thoát, đó
là pháp xả ly phải thực tập. Và thành tựu pháp này, không còn tâm chấp
trước, trí tuệ phát sanh, tức hiểu biết của chúng ta chính xác lần.
Trước kia, vì tham lam chấp trước, muốn đủ thứ, nên không thấy đúng;
nhưng nay không còn tâm chấp trước, không còn tâm ưa ghét, nên thấy đúng
sự thật của sự vật, tức biết ta là gì và ta đang ở đâu, sự hiểu biết
như vậy rất quan trọng.
Và khi định vị được con người thật của mình, chúng ta quan sát xung
quanh. Định vị mình là một con người trong xã hội loài người, ta là một
sinh vật trên trái đất cộng tồn với vô số sinh vật khác. Nhưng từ một
sinh vật trên trái đất này, chúng ta bắt đầu bỏ cố chấp, nên trí tuệ
phát sanh thì thấy loài người là một sinh vật có sự đặc thù hơn các loài
khác. Đức Phật khẳng định rằng chỉ loài người là cao quý nhất, vì có
thể xuất gia và làm Phật được. Các loài khác phải chuyển thân làm người
mới làm Phật được. Thật vậy, chúng ta phải có công phu tu tập nào đó mới
được làm người. Thuở nhỏ, tôi đọc truyện Phong thần,
nói rằng trước khi Hồ ly tinh là Đắc Kỷ chết, nó than là một ngàn năm
làm con chồn, nhờ công tu luyện mới thành người, nhưng tính chất Hồ ly
tinh còn, nên phạm nhiều điều sai trái, thì mất kiếp người, phải trở lại
làm chồn.
Có
trí tuệ thấy ta được làm người là rất quý so với các loài khác. Phật
nói rằng con người là tối linh, nên sử dụng cấu trúc thân người đặc biệt
để phát sanh trí tuệ. Các loài khác không có cấu trúc thân đặc thù như
loài người, nên không phát huy trí tuệ được. Con người có hệ thần kinh
đặc biệt mới có khả năng thăng hoa trí tuệ, trở thành Thánh Hiền, Tiên,
Phật. Từ thân người nếu phát huy được sự đặc thù của tâm linh sẽ kết nối
được với chư Phật và Bồ-tát trong mười phương. Vì vậy, nói theo khoa
học thì thân người là cỗ máy kỳ diệu, biết tiếp thu những gì cần thiết
và thải bỏ những thứ độc hại, tự nó có khả năng chữa lành bệnh tật,
nhưng vì vô minh tạo thành tội ác và các bệnh tật. Nếu biết vận dụng
đúng đắn hệ thần kinh, chúng ta có thể tiếp nhận được các từ trường đến
với mình. Ngồi yên, nhưng có người nghĩ thương ta hay ghét ta, hại ta,
ta đều nhận ra được. Thân người giống như một vệ tinh nhận được tín hiệu
trong trời đất, xa hơn là ta nhận ra sự hiện hữu của chư Phật và
Bồ-tát. Chỉ vì cố chấp, chúng ta hạn chế lần khả năng tiếp thu của mình
cho đến chỉ sống với bản năng, vô tri. Vì vậy, chấp pháp, trí tuệ không
sanh, không còn quan hệ tốt với loài người và các loài khác.
Người xưa nhắc nhở rằng chấp pháp, chấp ngã, chúng ta phải khổ, nhưng
tu hành lại bỏ tất cả để rơi vô tình trạng vô tri, chỉ còn kẹt vô pháp,
thì thật là nguy hiểm. Pháp là phương tiện dùng để xóa bỏ sai lầm thế
gian, nhưng xóa xong thì pháp cũng phải bỏ, cũng như qua sông cần thuyền
nhưng lên bờ thì phải bỏ thuyền; nói cách khác, trí giác sanh rồi, dùng
trí này để phát triển, thấy được sự thật và tùy theo đó mà ứng xử để
phước đức và trí tuệ của chúng ta tăng trưởng; đó là cách sống của người
tu không kẹt vào sự chấp trước. Họ có trí tuệ và dùng trí tuệ quan sát,
không phải chấp pháp để trở thành vô tri vô dụng; nhưng lấy trí tuệ làm
mạng sống thì mạng sống này lớn dần, tức trí tuệ và công đức càng ngày
càng lớn hơn. Do xả pháp chấp trước, nên lấy đức hạnh làm thân, lấy trí
tuệ làm mạng, thì tùy theo sự hiểu biết mà chúng ta có được đời sống ý
nghĩa và có đạo đức để cảm hóa người, thấy người có nhân duyên, ta mới
quan hệ, không có nhân duyên với ta thì thôi. Phật còn không độ được
người không có duyên, làm sao ta độ được.
Người có duyên với ta là thế nào. Người có duyên là người gây khó khăn,
hay quý trọng ta. Đối với người quý trọng ta, ta hợp tác làm bạn. Đối
với người gây khó khăn, chúng ta cũng thân cận để phát sanh trí tuệ.
Người thương và người chống đối ví như chân phải và chân trái, phải có
hai chân mới đi tới được. Nhờ có người bươi móc, ta mới tiến bộ, trí tuệ
mới phát sanh. Đức Phật nói rằng khi Ngài làm Chuyển luân Thánh vương,
tức là người có phước đức đầy đủ, không ai dám làm trái ý, Ngài thấy
cuộc sống không còn ý nghĩa, nên mới nói rằng nếu có người làm trái ý
Ngài được, Ngài sẵn sàng nhường giang sơn. Lúc đó, Tiên nhân đến và dạy
kinh Pháp hoa, thì vua sẵn sàng
bỏ ngôi theo ông. Ông này luôn làm trái ý vua, xem vua có còn buồn
giận, khó chịu hay không, nghĩa là Tiên nhân đã giúp nhà vua thấy được
sự thật của cuộc đời.
Người tu Đại thừa hay Pháp hoa dùng trí tuệ quan sát người có duyên để
chúng ta ứng xử và trưởng thành, chứ không chấp pháp; vì có tiếp xúc với
hai mặt của cuộc đời mới nhận ra sự thật của nó. Thật vậy, nếu chúng ta
thử tìm cách tiếp xúc sẽ thấy khi đến gần người nghịch duyên thì cử chỉ
và lời nói của họ đập vào suy tư, nhận thức của chúng ta, nhờ đó mình
phát hiện được sự thật về mình và cuộc đời. Vì vậy, đối với người quý
mến tôi, tôi trân trọng, nhưng đối với người chống tôi, tôi kính trọng
hơn. Chúng ta quan sát nhân duyên, thấy người chỉ trích, chúng ta đến
làm thân để học được những điều mà mình chưa có. Nếu chúng ta chuẩn bị
sẵn sàng như vậy thì việc nghịch xảy ra, chúng ta vẫn coi là tốt.
Phật nói khi tiền
thân Ngài làm Chuyển luân Thánh vương, không ai dám trái ý Ngài, nhưng
Tiên nhân dám cỡi trên lưng Ngài, nhờ đó Ngài mới luyện tập được đức
tánh vô nhiễm và vượt qua được tất cả sự chống đối. Đức Phật dạy rằng
thực sự ác ma không có khả năng gây khó khăn cho Bồ-tát, chỉ có Bồ-tát
lớn hiện thân ra để tạo sự thử thách. Có trí tuệ, chúng ta sẽ nhận ra ý
này. Trường thọ Tiên nhân sống đến 120 tuổi thì chắc chắn không ai có
thể tác hại ông, cũng như không có gì trên cuộc đời này cần thiết đối
với ông. Người trí như Chuyển luân Thánh vương nhận ra được cốt lõi của
Tiên nhân này như vậy, không ai dám chống Ngài, nhưng ông Tiên này dám
chống thì Ngài phải học với ông; còn người tham lam, chấp trước thì bực
tức với người dám chống lại mình.
Đương nhiên là người đồng hạnh đồng nguyện với ta thì cần hơn; nhưng
khi lấy trí tuệ làm mạng sống rồi, đối với người nghịch với ta, ta hóa
giải cho đến khi họ không chỉ trích, không chống phá, không hại được ta
là chúng ta đắc đạo, không phải trốn tránh. Theo kinh nghiệm riêng tôi,
tôi tồn tại được trên bước đường hành đạo nhờ hai việc, xin chia sẻ với
quý vị. Việc thứ nhất chắc chắn chúng ta khó có trí tuệ như Phật, tức
biết trước việc xảy ra, nên ta vô hiệu hóa nó. Thực tế cho thấy những
người lãnh đạo tài ba hầu hết đều biết trước việc xảy ra, biết mình,
biết người, nên thành công dễ dàng. Tuy nhiên, điều này khó có. Nhưng
trường hợp thứ hai mà tôi gặp là tánh linh. Phật dạy rằng chúng ta biết
là do tự biết, nhưng không có được sự tự biết thì có cái biết thứ
hai là được chư Thiên, chư thần mách bảo, hay tánh linh đánh thức chúng
ta. Tánh linh này từ đâu mà có? Những người đồng hạnh đồng nguyện với
ta không còn hiện hữu trên cuộc đời là Phật và Bồ-tát, các Ngài hộ niệm
ta, vì ta hiện hữu trên cuộc đời để làm việc mà các Ngài muốn làm, nhưng
các Ngài không có thân người nên không làm được. Ta có thân người, nên
các Ngài hộ niệm cho ta để ta làm. Nếu chúng ta tin Phật và sống theo
tinh thần Phật dạy, chúng ta vẫn biết, là do Phật hộ niệm, gọi là tánh
linh. Tôi thường có được sự hiểu biết này. Thí dụ buổi sáng, tôi định đi
làm một việc nào đó, nhưng tự nhiên cảm thấy mệt mỏi như sắp bệnh, nên
tôi không đi; đó là chư Thiên mách bảo đừng đi, đi là thọ nạn và thực tế
cũng cho thấy như vậy. Trên bước đường tu, nhận được sự trợ lực của
những vị Bồ-tát đồng hạnh đồng nguyện với ta khiến ta thấy biết những
điều mà bình thường không biết được, nên dễ thành công.
Thật vậy, quý vị nghiệm xem đối trước những việc khó, khổ, nguy hiểm,
tất nhiên ai cũng sợ; nhưng nếu tránh né thì suốt đời không làm được gì.
Mọi người sợ, nhưng có người làm thì họ sẽ được nhiều người thương quý.
Tuy nhiên, muốn làm được việc khó phải là Phật, Bồ-tát, thánh thần, nếu
không thì dễ mất mạng. Nhưng gặp việc nguy khó, nhờ Phật hộ niệm, ta
không thấy nguy, không sợ và ta sống được, từ Nhà lửa đi ra là giải
thoát. Vì vậy, khi ta có trí Nhị thừa và phát tâm đại bi, nhận được sự
trợ lực của Phật, Bồ-tát. Còn người ẩn tu chứng được trí Nhị thừa, họ
thấy cuộc đời đáng sợ, đáng tránh; nhưng Phật dạy trong kinh Pháp hoa rằng
lúc đó ta mới phát tâm Đại thừa độ sanh là đồng hạnh đồng nguyện với
chư Bồ-tát, thì các Ngài trợ lực cho chúng ta, khiến chúng ta thấy được
sự thật và dấn thân.
Bước đầu Phật khuyên chúng ta xả chấp để có trí tuệ làm mạng sống, thấy
được việc đáng làm và việc không nên làm, nhờ đó tạo được thân giới đức
khiến người quý trọng. Lấy trí tuệ và đức hạnh làm thân là có giới thân
huệ mạng thì được Phật hộ niệm, chúng ta có sai biệt trí, thấy hoàn
cảnh khổ của chúng sanh, ta khởi ý niệm giúp người, nên Phật và Bồ-tát
trợ lực, chúng ta mới làm đạo được. Vì vậy, trên bước đường tu, mượn
pháp xuất thế để phá pháp thế gian và thành tựu được pháp xuất thế thì
phát tâm Đại thừa nhận được lực hộ niệm của Phật và Bồ-tát, chúng ta
hành đạo không nghĩ đến phải trái hơn thua, nhưng việc làm của chúng ta
luôn luôn đúng và không thua. Việc tốt chúng ta làm, không cố chấp, dù
chúng ta bỏ, nhưng thành quả tốt đẹp vẫn tồn tại trong vô lậu ngũ uẩn,
hay Pháp thân. Được như vậy, khi chúng ta bỏ sanh thân này, đi đến thế
giới khác thì phước báo luôn đi theo ta và chúng ta hiện thân ở nơi đâu,
phước báo hiện hữu cùng ta ở nơi đó.
Hành Bồ-tát đạo, tất cả mọi việc đã làm rồi, chúng ta buông bỏ tâm chấp
trước, nhưng nó không mất; còn cố chấp, cố giữ không được mà mất lại
khổ hơn. Người tu lâu đến ba mươi năm, nhưng khởi ý niệm mình tu lâu mà
không được người kính trọng thì đau khổ, như vậy là cố chấp với việc tu
lâu sẽ làm cho mình mất công đức, lúc đó, người sẽ nghĩ chúng ta khó
tánh, không dám gần. Nhưng nay, sống hạnh buông xả, người kính trọng hay
xem thường thì ta vẫn là ta, miễn ta làm được cho Phật, cho chúng sanh
thì sẵn sàng làm. Vô tâm vô tư hành Bồ-tát đạo, tùy theo công đức có
được mà tạo thành Pháp thân có trí tuệ và phước đức, lấy đó làm mạng
sống. Khi rời bỏ ngũ uẩn sanh thân, chúng ta sẽ thâm nhập vào thế giới
tốt đẹp. Cầu mong tất cả đệ tử Phật xả được ngũ uẩn thân và chứng được
Pháp thân.
Bài viết cùng chủ đề:
- MỐI LIÊN HỆ GIỮA KINH NGUYÊN THỦY & KINH HOA NGHIÊM
- Ý Nghĩa Phẩm Như Lai Thọ Lượng Thứ 16 Kinh Pháp Hoa
- Ý nghĩa phẩm Bồ-tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 kinh Pháp hoa
- ĐỨC PHẬT THUYẾT PHÁP
- Ý nghĩa phẩm Pháp sư thứ 10 KINH PHÁP HOA
- Ý nghĩa bài kệ mở đầu Kinh Pháp hoa
- Vai trò của thầy trụ trì trong thời hiện đại
- Y Phật phát huy giới thân huệ mạng người xuất gia
- Công hạnh Quan Âm
- SEN HÁI ĐẦU MÙA
- Đền ơn đáp nghĩa đúng Chánh pháp
- CỞI TRÓI THÂN TÂM giữ chánh niệm - sống trong chánh định
- Đem Phật vào lòng, đem kinh vào lòng
- Gặt hái cho được quả Sa-môn trong mùa an cư
- Tu học để phát huy ĐẠO LỰC & TRÍ TUỆ
- Sanh thân, Báo thân & Pháp thân Phật
- Con đường tâm linh của người Phật tử 2
- Quan niệm về ĐỨC PHẬT
- Tên bài Số lượt nghe
-
Noi gương hiếu hạnh của Tôn giả Mục Kiền Liên 365
-
Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo phần 6 240
-
Ý Nghĩa Lễ Vu Lan báo hiếu 233
-
Cảm thức về Đại lễ Vu Lan 162
-
Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo phần 5 154
- Tên bài Số lượt nghe
-
Nghi Lễ Cúng Phật Đại Khoa 19.934
-
Bổn Môn Pháp Hoa 20 19.257
-
Bổn Môn Pháp Hoa 30 14.982
-
Trưởng Dưỡng Đạo Tâm - MS 127 14.903
-
Thiên Đường Trần Gian - MS 169 13.131