Sách
(Bài giảng Khóa bồi dưỡng trụ trì tại chùa Bình An, Long Xuyên)
Đối với người tu, chỉ cần giữ Bồ đề tâm là trí giác. Vì chúng ta mang theo trí giác sau khi chết; mỗi kiếp tu, chúng ta sẽ tăng thêm trí sáng này. Tâm Bồ đề quý nhất đã có rồi thì xây dựng thêm tình người; đó là phước đức của Bồ tát. Người thấy khởi tâm thương kính vì ta đã gieo vào lòng người tình cảm trong sáng từ đời trước. Người ghét cũng vì đã tạo việc ác, hay sai lầm của chúng ta đời trước. Đức Phật khuyên chúng ta nên giữ gìn và phát triển tình cảm trong sáng đối với chúng sinh. Phật nói về kinh nghiệm hành Bồ tát đạo của Ngài rằng không có chỗ nào trong vô số thế giới mà Ngài không xả thân vì chúng sinh. Đó là những tình cảm thánh thiện mà Phật đã gieo vào tâm chúng sinh và những việc làm lợi ích mà Phật đã làm cho chúng sinh. Vì thế muôn loài mới thương kính Phật là đấng cha lành.
Tâm Bồ đề để nhìn đời chính xác và tâm từ bi để cứu người, giúp đời. Hai tâm này hợp lại trong cuộc sống Bồ tát trên bước đường hoằng hóa độ sinh.
Thể hiện lòng từ bi, những việc tốt mà chúng ta giúp được cho người, thì không nên từ chối. Những việc tốt mà người khác làm, chúng ta không nên gây khó khăn. Có tầm nhìn chính xác và làm nhiều việc lợi cho đời thì phước đức tăng. Làm người khổ và phán đoán sai lầm, sẽ bị đọa. Đó là những pháp tu căn bản, mong quý vị suy nghĩ và thể hiện trong cuộc sống, để gặt hái được mọi điều tốt lành trong hiện đời và làm hành trang quý báu cho những đời kế tiếp.
Mục tiêu chính của chúng ta là hoằng pháp lợi sinh theo di huấn của Phật, thì chúng ta làm bất cứ việc gì cũng nhằm mang an lạc đến cho mọi người. Mang giáo lý Phật đi vào cuộc đời, tất cả Giảng sư cũng như trụ trì trước tiên phải thực hiện được lời Phật dạy trong cuộc sống của chúng ta. Không phải học làm Giảng sư là học cách nói thuyết phục, luyện tập giọng nói hay cử chỉ để người nghe theo. Trong đạo Phật, đó chỉ là phương tiện, không phải cứu cánh. Luyện tập điệu bộ, văn chương mà không trang bị đời sống phạm hạnh thể hiện trong cuộc sống là sai lầm lớn. Nếu làm như vậy, chỉ giảng được một thời gian ngắn, không thể giảng dạy lâu dài, không phải là con đường của Phật.
Chúng ta ôn lại xem xưa kia, Đức Phật rèn luyện Giảng sư như thế nào. Trong mười đại đệ tử Phật thì đã có tám vị thuộc ngoại đạo. Họ là giáo chủ của các tôn giáo khác, là những nhà hùng biện đã từng chinh phục nhiều người. Tuy nhiên, kết quả chiến thắng của họ thật chua xót, vì chính bản thân họ không được lợi ích, huống chi là người khác.
Điển hình như Xá Lợi Phất là nhà hùng biện bậc nhất ở Ma Kiệt Đà, không ai có khả năng tranh luận với ông. Tất cả học thuyết đương thời bị ông bẻ gẫy, nhưng lòng ông có lúc nào được yên; vì lo sợ ngày mai có người giỏi hơn hạ bệ. Điều này chúng ta phải nhận ra khi học giáo lý Phật. Ta giỏi, hạ người để đạt hạng nhất, thì cũng sẽ có người khác giỏi hơn hạ lại chúng ta. Đâu có ai trong cuộc sống này là thượng hạng vĩnh viễn.
Phật dạy Mã Thắng đến độ Xá Lợi Phất. Mã Thắng không cần tranh luận để phân cao thấp, mà Xá Lợi Phất đã nhận thua cuộc; ông không giảng dạy giáo lý, nhưng Xá Lợi Phất ngộ được và phát tâm quy y Phật, trở thành đệ tử trí tuệ bậc nhất. Điều này đáng cho chúng ta suy gẫm lắm chứ.
Cảm nhận sâu sắc bài pháp không lời của Mã Thắng và sự tỏ ngộ của Xá Lợi Phất, tôi làm bài kệ tán dương Xá Lợi Phất như sau :
Vị tu hành thời đại luận gia
Danh văn phổ cập Ma Kiệt Đà
Hạnh ngộ Thánh Tăng nhi phát túc
Vị lai tác Phật hiệu Hoa Quang.
Chưa theo Phật, Xá Lợi Phất là đại luận sư nổi tiếng nhất ở nước Ma Kiệt Đà. Nhưng may mắn cho ông gặp được Mã Thắng là Thánh Tăng, tự nhiên không còn ý hơn thua trên cuộc đời và buông bỏ được tất cả sinh diệt huyễn mộng, tu theo Phật. Ông mới được Phật thọ ký làm Phật trong tương lai hiệu là Hoa Quang.
Đọc bài kệ này nhắc nhở chúng ta không còn ý nghĩ chinh phục người khác. Phật muốn dạy chúng ta hoằng pháp cách nào, dạy Mã Thắng những gì mà chinh phục được nhà hùng biện bậc nhất; chúng ta cần học.
Theo Phật, pháp tịch diệt là chân thật pháp của Ngài không dùng ngôn ngữ diễn tả được. Dùng lời nói chỉ diễn tả được pháp sinh diệt. Tịch diệt khác với sinh diệt. Trong kinh Niết Bàn, Phật cho biết khi hành Bồ tát đạo, Ngài phải trả giác rất đắt, bằng cả sinh mệnh để học được cốt tủy của pháp tịch diệt như sau :
"Chư hành vô thường thị sinh diệt pháp”, nghĩa là tất cả pháp đều luôn thay đổi, sinh diệt. Đừng chấp vào pháp sinh diệt; nương tựa pháp sinh diệt sẽ bị nó cuốn trôi, chẳng được lợi ích, mà còn bị nó tác hại khổ đau.
Sinh diệt này phải chấm dứt bằng cách không khởi tâm theo nó. Nhờ vậy, chúng ta ở trạng thái tâm tịch diệt; nghĩa là tâm hoàn toàn trong sáng, vắng lặng, thanh tịnh. Đó chính là niềm vui tuyệt vời của đạo Phật, gọi là Niết bàn, "Sinh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc”. Trên bước đường tu, điều cốt lõi chúng ta đạt cho được hai chữ tịch diệt.
Phật đến Lộc Uyển thuyết Tứ Thánh đế, dùng Đạo đế để phá trừ pháp sinh diệt, giúp cho năm Tỳ kheo từng bước vào pháp tịch diệt. Trước tiên, Phật dạy rằng Khổ đế và Tập đế thuộc sinh diệt pháp; Đạo đế và Diệt đế là tịch diệt pháp.
Tất cả tính toan, lời nói phải trái, việc làm hơn thua, v.v… đều thuộc pháp sinh diệt, mà chúng ta phải gạt bỏ, không cần hơn nhau những thứ này. Hơn nhau một lời nói rồi nó cũng qua đi. Những người nổi tiếng rồi sẽ có người khác nổi tiếng hơn nữa.
Người xưa có nói hai câu đơn giản nhưng rất hay :
Trường Giang hậu lãng xuy tiền lãng
Thế thượng tân nhân tống cựu nhân
Nhìn dòng sông Trường Giang ở Trung Quốc, thấy đợt sóng sau đẩy đợt sóng trước tan đi. Người mới xuất hiện thay cho người cũ. Nay chúng ta nổi tiếng, mai có người khác nổi hơn. Cứ vậy mà mọi việc ở sinh diệt tướng thay đổi mãi, không có gì vĩnh viễn tồn tại. Vì thế, chúng ta không bận tâm với pháp sinh diệt bằng cách thực hiện Diệt đế để đi vào con đường xa lìa mọi khổ đau. Và từ đó, bước lần vào thế giới chân thật thanh tịnh sống với đời sống thật, không sinh diệt; đó là hướng giải thoát của người tu, đừng chạy theo giã huyễn, làm người bắt bóng. Từng bước vào Tịnh độ, hay thật địa là thế giới an lạc vĩnh viễn.
Vào thật địa, Tịnh độ rồi, tâm chúng ta hoàn toàn trong sáng, thể hiện ra hoàn cảnh sống của chúng ta an vui, tốt đẹp thật sự; đó chính là Tịnh độ. Kinh Duy Ma dạy rằng Phật ấn chân xuống đất thì Ta Bà liền đổi thành Tịnh độ. Ta Bà và Tịnh độ là một, nên nói rằng tâm tịnh thì độ tịnh. Vì thế, đem tâm sinh diệt đặt vào Tịnh độ thì Tịnh độ cũng thành Ta Bà. Tâm thế nào sẽ xuất hiện thế giới tương ưng như vậy. Tâm thanh tịnh tạo thế giới thanh tịnh; tâm nhiễm ô tạo thế giới Ta Bà. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả ý này là tâm sinh ra tất cả pháp.
Đức Phật dạy chúng ta suy nghĩ về hai chữ sinh diệt đến cùng tột ngọn nguồn, thì tịch diệt xuất hiện. Tôi diễn tả ý này là "Tâm trí lắng yên như vào Thiền định”. Tâm trí không còn suy nghĩ là vào cảnh tịch diệt. Vì quán tường tận sinh diệt, nên nó không phá rối được ta, tâm ta thanh tịnh; không khởi niệm thì sẽ hiện tướng giải thoát. Đức Phật dạy rằng tướng tùy tâm sinh, mà tướng cũng tùy tâm diệt. Chúng ta thấy có người phát tâm Bồ đề, xuất gia, họ hiện hảo tướng liền; vì tâm cầu đạo cao, hết lòng nghĩ đến Phật. Nhưng tu vài năm, họ xấu lần, mất tướng hảo; họ bắt đầu tính toán xem phải làm gì, phải tụng mấy thời kinh, phải … , họ suy tính cái gì thì cái đó hiện lên nét mặt họ.
Nếu trụ ở trạng thái tịch diệt tướng, tâm vắng lặng, lòng thanh thản trước mọi việc tốt xấu. Mã Thắng Tỳ kheo đạt vô niệm, thể hiện tướng tịch diệt. Phật mới cho ông đi khất thực để mang tướng giải thoát đi vào cuộc đời, giáo hóa chúng sinh; người nhìn thấy sự thanh tịnh của ông là phát tâm. Với tâm thanh tịnh và tướng giải thoát, Mã Thắng giáo hóa Xá Lợi Phất mà không cần nói lời nào, vì nói thì rơi vào pháp sinh diệt. Không nói, nhưng đã thể hiện pháp tịch diệt.
Các vị Tổ sư, các bậc chân tu ít nói. Các Ngài đến vùng nào hành đạo, ở gốc cây hay thảo am tu hành; nhưng quần chúng kính ngưỡng, phát tâm xây chùa. Vì các Ngài đã chứng quả tịch diệt, là A la hán, người trông thấy phát tâm, liền được thanh tịnh, giải thoát. Người giải thoát xuất hiện làm cho người khác an vui, còn người nghiệp ác làm cho người buồn phiền, bực tức, nói nhiều cũng không ai tin. Các vị Giảng sư phải suy nghĩ điều này. Muốn giáo hóa chúng sinh, ta phải giáo hóa mình trước, làm cho mình giải thoát và tác động cho người thấy, hay nghe ta nói cũng được giải thoát; đó là pháp chân thật.
Đức Phật dạy Mã Thắng sử dụng pháp này để giáo hóa, đạt được hiệu quả cao. Mã Thắng chỉ cần độ một mình Xá Lợi Phất thôi, mà tác động đến 200 đệ tử của ông cũng theo Phật. Và Mục Kiền Liên thấy quả vị giải thoát của Xá Lợi Phất, cũng xin theo Phật, tất nhiên cả đệ tử của Mục Kiền Liên cũng về với Phật. Mã Thắng không phải nhà hùng biện, nhưng chỉ một buổi khất thực mà độ được hai nhà lãnh đạo rất tài giỏi và thu phục được 200 người có tầm cỡ. Quả là sự giáo hóa vi diệu.