Sách
(Bài giảng tại Khóa Bồi dưỡng trụ trì tỉnh Đồng Tháp tổ chức tại trường hạ chùa Phước Hưng, thị xã Sa Đéc, ngày 3-7-2003)
Đức Phật thành đạo, Ngài không đặt vấn đề An cư, vì những người theo Phật hầu hết là Thánh Tăng. Vì vậy, ban đầu Phật dạy rằng mỗi người nên đi giáo hóa chúng sanh ở mỗi nơi khác nhau, hai người không nên đi chung một chỗ. Điều này cho thấy đệ tử Phật có những vị Hiền Thánh đi giáo hóa chúng sanh, sau gọi là chúng Đại thừa hay Bồ tát, tức người có năng lực và có đạo đức để cảm hóa người.
Chúng ta tự xét mình có phải là Hiền Thánh hay chưa. Nếu là Hiền Thánh thì bất kể ngày đêm mưa nắng ở đâu, hễ chúng sanh cần thì đến, không từ khó nhọc, không sợ gian lao. Thậm chí có vị nói rằng chúng ta không vào địa ngục thì ai vào, đó là phát nguyện lớn của các vị đại Bồ tát như Quan Âm, Địa Tạng. Chúng ta lập hạnh Đại thừa phải làm như thế, tuy nhiên phải là con người vô nhiễm và có đạo lực mới được như vậy.
Về sau, nhiều người theo Phật nhưng chưa đắc đạo, còn nghiệp và phiền não, nên Phật có cách hướng dẫn khác. Những vị sạch nghiệp phải đi giáo hóa để nuôi những người còn nghiệp. Phật là vị Thầy có trí tuệ bậc nhất, Ngài xử sự với từng người, từng việc khác nhau, không đưa ra mô hình chung mà ai cũng phải theo.
Trên bước đường hành đạo, Phật đến Lộc Uyển, Kiều Trần Như đắc đạo nên được cùng với Phật đi khất thực để nuôi 4 người chưa được phép đi khất thực vì sợ họ ra ngoài bị tiêm nhiễm việc không tốt thì phiền não sẽ phát sanh làm gương xấu cho đời. Như vậy, người chưa đắc đạo phải ở yên một chỗ tu hành và người đắc đạo khất thực nuôi họ. Về sau, Phật dạy rằng nếu sau khi Phật nhập diệt, Phật tử có tín tâm nên cúng dường chư Tăng để họ có điều kiện tu đắc đạo. Đó là bước đầu của vấn đề An cư được đặt ra. Chỗ khác thì nói rằng nguyên nhân của việc cấm túc An cư là vì những người chưa đắc đạo gặp mưa nắng, bão lụt bị nước cuốn trôi, mất mạng hoặc bệnh hoạn, nên Phật cho họ ở một chỗ tu hành và chỉ đạo Phật tử cúng dường. Vì vậy, tùy hoàn cảnh từng người mà có cách tu hành khác nhau. Tuy nhiên, đối với Tỳ kheo chỉ được làm hai việc, một là khất thực để sống, hai là Phật tử cúng dường để chúng ta sống và tu hành. Phật không cho phép chúng ta làm nông nghiệp, thương nghiệp và quan hệ với chính quyền. Cuộc đời của người tu chỉ có học và tu; nhưng tu cái gì?
Thực tế nhất trong cuộc sống tu hành là tự rèn luyện mình thành Hiền Thánh hay thành người hữu dụng trên cuộc đời, đó là hướng mà Phật xây dựng cho người tu từ khi Ngài còn tại thế. Chúng ta không lo vấn đề ăn mặc, chỗ ở thì phải phát huy năng lực để trở thành người hữu dụng cho đến thành Hiền Thánh, không phải tu theo hình thức mà thành vô dụng.
Muốn thành người hữu ích, thực tế ngày nay người tu phải có ba điều. Trước tiên là cần có thể lực tốt. Tu sai lầm làm cho bệnh hoạn, vô dụng, chúng ta có lỗi với Phật. Muốn làm được việc, sức khỏe là điều tiên quyết phải có. Một vị Thánh La hán rất khỏe mạnh, đi truyền đạo không sợ nắng mưa, đói rét. Tu hành, đầu tiên phải rèn luyện cơ thể theo cách của Phật. Phật dạy rằng tất cả loài vì ăn mà giết hại nhau, nên người tu từ chối ăn động vật. Đối với tôi, chúng ta điều hòa vấn đề ăn uống để có sự ăn uống thật kỳ diệu so với người đời. Làm thế nào chúng ta chỉ ăn thực vật, ngũ cốc mà vẫn khỏe. Điều này lạ đối với người đời, họ cho rằng phải ăn đủ thứ mới tốt, chỉ ăn thảo mộc thì không khỏe. Nghĩ như vậy là sai. Thực tế cho thấy những loài động vật chỉ ăn thực vật, nhưng rất khỏe như voi, trâu bò, ngựa, v.v…, không phải ăn thịt chúng sanh mới khỏe.
Ngày nay khoa học cũng chứng minh rằng đạm thực vật tốt hơn đạm của động vật có nhiều độc tố. Đối với xã hội văn minh, ăn chay cho sức khỏe kỳ diệu, người ăn chay ít mắc phải những bệnh tật như người ăn mặn. Một trong những nguyên nhân gây bệnh là độc tố chứa trong thịt của con vật, vì trước khi bị giết, do sợ hãi nên phản ứng tự nhiên của cơ thể chúng đã tiết ra những độc tố; chưa kể những bệnh nguy hiểm khác tiềm ẩn trong thân con vật mà người ta khó biết được, gần đây nhất là bệnh bò điên cũng làm chấn động những người hay ăn thịt bò trên thế giới.
Tôi tự rèn luyện cơ thể mình có sức chịu đựng, cũng nhờ ăn chay không có độc tố, nên không sanh những bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên, một số Thầy ăn chay, nhưng sanh bệnh nguy hiểm như Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Huệ Hưng bị ung thư gan. Một số nhà khoa học nói với tôi rằng ăn rau quả, nhưng nếu có dư lượng thuốc trừ sâu hay sử dụng phân hóa học quá nhiều thì đó cũng là mầm gây bệnh. Hoặc ăn những chất lên men như tương chao thì trong quá trình ủ mốc có những loại mốc chứa độc tố gây bệnh ung thư. Tôi làm thị giả Hòa thượng Thiện Hoa thấy Ngài thường ăn cơm với chao, e rằng lâu ngày chất chứa mầm bệnh ung thư.
Tôi ăn chao, nhưng ăn ít và không ăn thường xuyên, thì cơ thể loại được độc tố nếu có; ăn nhiều chao sợ cơ thể không đủ sức thải độc tố. Theo tôi, điều quan trọng chúng ta tu phải có công phu, nghĩa là phải áp dụng một pháp nào, chẳng hạn như luyện khí công. Khi ăn những chất ít độc tố, mà mắc phải chất độc nào, chúng ta dùng khí công trong lúc tọa Thiền sẽ đẩy được chất độc ra ngoài. Các Thầy tu của phái Thiếu Lâm khỏe mạnh nhất vì đã loại bỏ được chất độc ra khỏi thân và tâm. Theo kinh nghiệm riêng tôi, khi làm việc nhiều, cơ thể chúng ta không điều hòa. Chúng ta phải có thời gian tu tập Thiền quán để điều hòa lại cơ thể. Chúng ta ngồi yên, thư giãn, không suy nghĩ, để các hệ thần kinh tự điều hòa; vì cơ thể chúng ta là một cỗ máy kỳ diệu có khả năng tự loại bỏ độc tố.
Làm việc nhiều, lo lắng nhiều, dồn dập lâu ngày dễ thành bệnh. Chúng ta phải cho cơ thể nghỉ ngơi một khoảng thời gian nhất định. Riêng tôi, đối với những bệnh cảm cúm, tôi không uống thuốc, vì biết cơ thể có khả năng điều chỉnh và biết các siêu vi gây cảm cúm thường có chu kỳ sống trong khoảng 2 tuần. Vì vậy, chúng ta hạn chế làm việc, nghỉ ngơi để cơ thể có sức đề kháng chống lại siêu vi này. Ngoài ra, nếu biết vận công tạo thành sức nóng trong cơ thể cũng tống khứ được các siêu vi. Đối với những người không vận công được, có thể nấu nước xông với các lá cây trợ lực làm toát mồ hôi và ăn bát cháo gừng tạo thêm sức nóng bên trong thì cũng hết bệnh, không cần uống thuốc. Nhiều người lạm dụng thuốc, cơ thể trở thành suy yếu đến mức không còn sức đề kháng.
Vị A la hán không sợ lạnh nóng. Còn chúng ta lạnh một chút là mặc áo len, bảo vệ mình quá kỹ nên lâu ngày, lớp da không còn sức đề kháng. Hoặc trời nóng, chúng ta mở quạt, có gió tạo cảm giác mát, nhưng thực không mát, vì chúng ta đã làm tăng thêm nhiệt trong phòng. Ở Thiền viện Nhật, họ dạy tôi rằng trời lạnh tắm nước lạnh, trời nóng tắm nước nóng. Trời nóng tắm nước nóng không còn cảm thấy nóng, vì da của chúng ta tiếp thu nước nóng, nên gặp khí nóng bên ngoài, không cảm thấy nóng nữa. Ngược lại, trời lạnh thì tế bào da tự co lại, giúp cho cơ thể giữ được hơi ấm trong người chúng ta. Nhật Liên tông áp dụng pháp tu, mùa Đông họ lên núi Thân Duyên tu, ngồi ngoài tuyết, không mặc áo, chỉ đóng một cái khố. Ai chịu được lạnh, không bệnh, được coi là cao Tăng.
Muốn trở thành nhà truyền đạo phải rèn luyện cơ thể khỏe mạnh là bước đầu. Cơ thể hay phần sắc điều chỉnh tốt rồi, nghĩ đến tâm quan trọng hơn. Tâm chủ yếu là thọ, tưởng, hành, thức.
Trước tiên, chúng ta điều chỉnh thọ. Theo Duy Thức có khổ thọ, lạc thọ và xả thọ. Người tu tập xả, cái gì cũng bỏ, không lưu lại trong tâm; xả cho nhẹ, ghim giữ trong tâm thêm phiền. Người đời thì thích hỷ lạc, tránh khổ, nhưng càng tránh, khổ càng bao vây, càng tìm vui, nó càng tránh xa. Ngày nay chúng ta thấy rõ điều này. Con người muốn được an lạc là muốn tiện nghi cuộc sống thật nhiều, thì họ càng phá hại quả địa cầu này trầm trọng hơn. Các nhà máy không có hệ thống xử lý chất thải đã gây nguy hiểm nhiều cho sức khỏe con người. Hoặc máy điều hòa cho một vài người hưởng khí lạnh, nhưng thải ra khí nóng và khí độc cho nhiều người và cả trái đất cùng gánh chịu. Đức Phật đã thấy vấn đề này từ xưa, ngày nay chúng ta mới biết. Cuộc sống quan trọng nhất là cân bằng sinh thái để ngôi nhà chung là trái đất có tuổi thọ lâu dài và an toàn.
Để trái đất được sự sống cân bằng, không bị nhiễm ô, Đức Phật dạy chúng ta cách sống tri túc; nghĩa là hạn chế yêu cầu của con người càng nhiều thì sinh thái của trái đất càng dễ cân bằng. Yêu cầu càng lớn, như phải sử dụng số lượng lớn dầu hỏa hay gỗ sẽ làm cho trái đất chúng ta nóng lạnh bất bình thường, không còn cân bằng sẽ dẫn đến sự tồn tại của nó không an toàn, không lâu dài.
Đối với cảm thọ, Phật dạy chúng ta hạn chế yêu cầu tối đa, những gì khắc phục được thì không đòi hỏi. Người tu không cầu lạc thú thì khổ cũng không tới; không thấy khổ, không thấy vui mới trụ được xả thọ, tâm hồn thanh thản. Cuộc sống tu hành không đòi hỏi xã hội và người làm gì cho ta, thì người mới đến với ta. Và ta đến với người chỉ để đáp ứng yêu cầu của họ, nhất định họ sẽ quý mến ta.
Thực hành xả thọ là làm thế nào tránh được yêu cầu của bản thân đến mức tối đa, giải thoát sẽ tới. Người tu giải thoát ở đâu, ăn thế nào cũng được, không đòi hỏi có nhiều tiện nghi, vì càng nhiều tiện nghi càng bị lệ thuộc. Đức Phật đã thể nghiệm cách sống như vậy và dạy chúng ta.
Tiếp theo phần thọ là tưởng và hành. Trí óc con người luôn luôn suy nghĩ, tính toán, Phật gọi là tưởng uẩn. Tưởng có hai thứ, đối với vọng tưởng điên đảo, chúng ta phải trừ bỏ, vì chúng ta nghĩ lung tung, tưởng tượng những việc không bao giờ có thì quả là vô ích. Nhưng chúng ta dứt vọng tưởng mà trở thành gỗ đá thì cũng không đúng. Phật dạy chúng ta nên gom suy nghĩ lại, tức tập trung để tạo cho chúng ta cái nhìn chính xác; vì tán tâm thì không thể quán sát sự vật đúng đắn. Có thể lấy ví dụ điển hình về sức mạnh của tâm tập trung giống như chúng ta dùng cái kính chiếu vô mặt trời để gom sức nóng hội tụ vào một điểm thành điểm nóng, sẽ phát ra sức nóng đốt cháy được giấy. Tâm chúng ta cũng thế, phải gom nó lại một điểm để rọi vào vấn đề nào, sẽ cho chúng ta đáp số chính xác. Trong kinh diễn tả rằng chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện.
Tùy theo sức tập trung mà có những cái nhìn đúng đắn khác nhau, phàm phu không tập trung được, chư Thiên không tán tâm, chỉ nhìn thấy niềm vui. Nhị thừa thấy muôn sự muôn vật không có thực thể, nên không tham đắm, được giải thoát. Và Bồ tát thấy cao hơn, thấy thật tướng của mọi loài và thấy cách ứng xử tốt đẹp tương ưng cho từng người, từng loài, từng việc.
Theo Phật, chúng ta phải khéo sử dụng cái tưởng, nó rất quý báu nếu sử dụng đúng, không biết sử dụng, nó trở thành hại. Tôi thường nói tập trung tư tưởng để nhìn qua lăng kính Phật hay nhìn đời theo cách của Phật, Bồ tát, thấy giá trị thực của cuộc đời, nên phiền não không phát sanh. Sử dụng tưởng cho chính xác cao độ và dùng đó làm hành trang đi vào cuộc đời gọi là hành uẩn, nghĩa là nghĩ ra cách cứu đời và vào đời để cứu giúp người.
Trải qua quá trình tu, điều chỉnh thân và tâm, có được trí tuệ tuyệt vời, thân khỏe mạnh; sử dụng thân tâm tốt đẹp của người hữu dụng mới dấn thân vào đời cứu vớt chúng sanh, thể hiện hình ảnh của Thánh hiền, Bồ tát ở nhân gian. Không cần biết tụng được bao nhiêu bộ kinh, tham Thiền bao nhiêu lâu, chỉ có sức khỏe tốt, thông minh và trái tim đầy nhân ái là ba chất liệu cần thiết cấu tạo nên tư cách Thánh hiền, Bồ tát. Vào nhà Như Lai là có trái tim nhân ái, không có tâm này, không thương tưởng cuộc đời không phải là đệ tử Phật.
Có đủ ba điều kiện tiên quyết này vào đời làm lợi ích cho người theo phương cách của Phật đã làm. Đức Phật được mệnh danh là đạo sĩ trầm mặc, khác với đạo sĩ Bà la môn luôn tranh cãi nhau không biết mệt; họ tập nói, tập chinh phục người bằng cách nói hơn người khác. Đức Phật yên lặng, không nói, nhưng tỏa ra đạo hạnh kỳ diệu khiến người phải kính phục, quy ngưỡng. Ngài luôn trầm mặc, nghĩa là tập trung tư tưởng và chiếu rọi vào cuộc đời thấy nơi nào cần đến, Ngài đến giáo hóa, thấy người cần cứu giúp, Ngài đến cứu giúp. Ngày nay, muốn giáo hóa có kết quả tốt, các Thầy trụ trì phải có trí tuệ và dùng trí tuệ để giáo hóa, quán sát chỗ nào cần thì giúp để họ trở thành Bồ đề quyến thuộc, nhất định thành công, đừng giáo hóa chung chung. Không phải lựa gười giàu, người giỏi, có tiếng; họ không cần ta mà tìm đến họ, sẽ bị xem thường. Riêng tôi cần người có cùng tâm niệm, cùng hạnh nguyện để hợp tác, làm việc.
Đáp ứng được yêu cầu của Phật tử, họ tìm đến chùa đông là biết tu đúng pháp, làm tròn vai trò của trụ trì. Trái lại, làm mất lòng Phật tử, họ bỏ chùa là sai. Tuy nhiên, cần phân biệt để điều chỉnh, nếu hết duyên ở chùa này, thì phải đến chỗ khác tu, thậm chí hết duyên ở thế giới này phải đi thế giới khác. Hết duyên, Phật tử không đến, ta đi tìm chỗ có duyên, người có duyên để độ. Phật cũng chỉ độ được người có duyên, ngay cả hội Pháp Hoa còn có 5.000 người rời đạo tràng vì hết duyên. Duyên Thầy trò có thì họ sống chết hết lòng với ta, nhưng hết duyên, nhiều khi trở thành thù. Nếu họ không bỏ đi thì ta đi. Lịch sử cho thấy Tổ Bồ Đề Đạt Ma hành đạo, hết duyên ở Ấn Độ, Ngài cũng bỏ nơi này mà sang Trung Hoa tìm Huệ Khả để độ, mở ra trang sử mới cho Thiền tông. Hoặc Tỳ Ni Đa Lưu Chi độ Giới Hiền thành lập tông Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở Việt Nam cũng theo tinh thần tìm người có duyên để độ.
Chúng ta mỗi người mặc áo Bắc tông, Nam tông, hay Khất sĩ cũng rõ ràng thể hiện cái duyên của chúng ta với tông phái ấy. Trên bước đường tu, duyên với chùa, với người, với pháp môn tu… là điều quan trọng. Tùy duyên mà hành đạo, ngược lại, không giáo hóa được còn gây phiền hà cho ta và người.
Muốn làm đạo, phải tạo duyên, về sau mới có quả lành. Tạo ác duyên thì sanh trên cuộc đời, ta luôn gặp ác, người đã tạo được thiện duyên, đôi khi làm sai, vẫn được kết quả tốt. Phật dạy chúng ta tu hành phải thấy nhân duyên. Nhân duyên đầy đủ thì việc tự thành, không thể khác. Chúng ta muốn khác thì phải tạo duyên khác. Thật vậy, mọi vật biến đổi không ngừng, chúng ta tùy theo duyên biến đổi ấy mà hành đạo, ngược lại là tự chuốc họa vào thân. Thí dụ, tôi ở chùa nào, thấy người thương mình nhiều, người ghét ít, thì biết ở đây làm đạo được. Vì đối với người thương, ta trân trọng họ, tạo thêm cảm tình tốt với họ; đối với người ghét gây khó khăn, ta không buồn phiền, tìm cách tùy hỷ với những việc tốt của họ để chuyển đổi ác duyên thành thiện duyên với họ. Đối với người thờ ơ, chúng ta tìm duyên để kết nối, quan hệ với họ. Muốn làm bạn với họ, ta tập trung tư tưởng xem họ muốn gì, nghĩ gì, theo đó ta tùy thuận thì không có vấn đề xảy ra. Thí dụ người không muốn ta làm gì, chỉ muốn ta đi cho khuất mắt thì ta phải chào từ giã thôi. Nhưng mình đi rồi, họ lại cảm thấy nặng lòng; còn mình ở lại, dù cố gắng làm gì, họ cũng không vui. Chúng ta đi nơi khác mà có được đời sống cao hơn, họ sẽ quý trọng ta, còn ta sống thấp hơn, họ sẽ thương ta.
Người đối với chúng ta chưa có duyên lành, chúng ta phải kết duyên lành hay trồng căn lành bằng cách làm theo ý muốn của họ, đương nhiên vài lần, họ sẽ cảm tình tốt với ta; làm ngược lại ý người, chắc chắn trên cuộc đời này không ai thích bị trái ý, chẳng những không được quý mến mà nhiều khi còn chuốc họa không nhỏ, tất nhiên không thể được yên thân tu hành, tâm cũng không thể an ổn, nói chi đến làm được việc cao xa hơn.
Cầu mong chư tôn đức được thân khỏe, trí sáng, tấm lòng từ bi quảng đại, làm cho Phật pháp trường tồn lợi lạc trên thế gian này.