cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái

(Bài giảng tại Khóa Bồi dưỡng trụ trì tỉnh Đồng Tháp tổ chức tại trường hạ chùa Phước Hưng, thị xã Sa Đéc, ngày 3-7-2003)

         Đức Phật thành đạo, Ngài không đặt vấn đề An cư, vì những người theo Phật hầu hết là Thánh Tăng. Vì vậy, ban đầu Phật dạy rằng mỗi người nên đi giáo hóa chúng sanh ở mỗi nơi khác nhau, hai người không nên đi chung một chỗ. Điều này cho thấy đệ tử Phật có những vị Hiền Thánh đi giáo hóa chúng sanh, sau gọi là chúng Đại thừa hay Bồ tát, tức người có năng lực và có đạo đức để cảm hóa người.

Chúng ta tự xét mình có phải là Hiền Thánh hay chưa. Nếu là Hiền Thánh thì bất kể ngày đêm mưa nắng ở đâu, hễ chúng sanh cần thì đến, không từ khó nhọc, không sợ gian lao. Thậm chí có vị nói rằng chúng ta không vào địa ngục thì ai vào, đó là phát nguyện lớn của các vị đại Bồ tát như Quan Âm, Địa Tạng. Chúng ta lập hạnh Đại thừa phải làm như thế, tuy nhiên phải là con người vô nhiễm và có đạo lực mới được như vậy.

Về sau, nhiều người theo Phật nhưng chưa đắc đạo, còn nghiệp và phiền não, nên Phật có cách hướng dẫn khác. Những vị sạch nghiệp phải đi giáo hóa để nuôi những người còn nghiệp. Phật là vị Thầy có trí tuệ bậc nhất, Ngài xử sự với từng người, từng việc khác nhau, không đưa ra mô hình chung mà ai cũng phải theo.

Trên bước đường hành đạo, Phật đến Lộc Uyển, Kiều Trần Như đắc đạo nên được cùng với Phật đi khất thực để nuôi 4 người chưa được phép đi khất thực vì sợ họ ra ngoài bị tiêm nhiễm việc không tốt thì phiền não sẽ phát sanh làm gương xấu cho đời. Như vậy, người chưa đắc đạo phải ở yên một chỗ tu hành và người đắc đạo khất thực nuôi họ. Về sau, Phật dạy rằng nếu sau khi Phật nhập diệt, Phật tử có tín tâm nên cúng dường chư Tăng để họ có điều kiện tu đắc đạo. Đó là bước đầu của vấn đề An cư được đặt ra. Chỗ khác thì nói rằng nguyên nhân của việc cấm túc An cư là vì những người chưa đắc đạo gặp mưa nắng, bão lụt bị nước cuốn trôi, mất mạng hoặc bệnh hoạn, nên Phật cho họ ở một chỗ tu hành và chỉ đạo Phật tử cúng dường. Vì vậy, tùy hoàn cảnh từng người mà có cách tu hành khác nhau. Tuy nhiên, đối với Tỳ kheo chỉ được làm hai việc, một là khất thực để sống, hai là Phật tử cúng dường để chúng ta sống và tu hành. Phật không cho phép chúng ta làm nông nghiệp, thương nghiệp và quan hệ với chính quyền. Cuộc đời của người tu chỉ có học và tu; nhưng tu cái gì?

Thực tế nhất trong cuộc sống tu hành là tự rèn luyện mình thành Hiền Thánh hay thành người hữu dụng trên cuộc đời, đó là hướng mà Phật xây dựng cho người tu từ khi Ngài còn tại thế. Chúng ta không lo vấn đề ăn mặc, chỗ ở thì phải phát huy năng lực để trở thành người hữu dụng cho đến thành Hiền Thánh, không phải tu theo hình thức mà thành vô dụng.

Muốn thành người hữu ích, thực tế ngày nay người tu phải có ba điều. Trước tiên là cần có thể lực tốt. Tu sai lầm làm cho bệnh hoạn, vô dụng, chúng ta có lỗi với Phật. Muốn làm được việc, sức khỏe là điều tiên quyết phải có. Một vị Thánh La hán rất khỏe mạnh, đi truyền đạo không sợ nắng mưa, đói rét. Tu hành, đầu tiên phải rèn luyện cơ thể theo cách của Phật. Phật dạy rằng tất cả loài vì ăn mà giết hại nhau, nên người tu từ chối ăn động vật. Đối với tôi, chúng ta điều hòa vấn đề ăn uống để có sự ăn uống thật kỳ diệu so với người đời. Làm thế nào chúng ta chỉ ăn thực vật, ngũ cốc mà vẫn khỏe. Điều này lạ đối với người đời, họ cho rằng phải ăn đủ thứ mới tốt, chỉ ăn thảo mộc thì không khỏe. Nghĩ như vậy là sai. Thực tế cho thấy những loài động vật chỉ ăn thực vật, nhưng rất khỏe như voi, trâu bò, ngựa, v.v…, không phải ăn thịt chúng sanh mới khỏe.

Ngày nay khoa học cũng chứng minh rằng đạm thực vật tốt hơn đạm của động vật có nhiều độc tố. Đối với xã hội văn minh, ăn chay cho sức khỏe kỳ diệu, người ăn chay ít mắc phải những bệnh tật như người ăn mặn. Một trong những nguyên nhân gây bệnh là độc tố chứa trong thịt của con vật, vì trước khi bị giết, do sợ hãi nên phản ứng tự nhiên của cơ thể chúng đã tiết ra những độc tố; chưa kể những bệnh nguy hiểm khác tiềm ẩn trong thân con vật mà người ta khó biết được, gần đây nhất là bệnh bò điên cũng làm chấn động những người hay ăn thịt bò trên thế giới.

Tôi tự rèn luyện cơ thể mình có sức chịu đựng, cũng nhờ ăn chay không có độc tố, nên không sanh những bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên, một số Thầy ăn chay, nhưng sanh bệnh nguy hiểm như Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Huệ Hưng bị ung thư gan. Một số nhà khoa học nói với tôi rằng ăn rau quả, nhưng nếu có dư lượng thuốc trừ sâu hay sử dụng phân hóa học quá nhiều thì đó cũng là mầm gây bệnh. Hoặc ăn những chất lên men như tương chao thì trong quá trình ủ mốc có những loại mốc chứa độc tố gây bệnh ung thư. Tôi làm thị giả Hòa thượng Thiện Hoa thấy Ngài thường ăn cơm với chao, e rằng lâu ngày chất chứa mầm bệnh ung thư.

Tôi ăn chao, nhưng ăn ít và không ăn thường xuyên, thì cơ thể loại được độc tố nếu có; ăn nhiều chao sợ cơ thể không đủ sức thải độc tố. Theo tôi, điều quan trọng chúng ta tu phải có công phu, nghĩa là phải áp dụng một pháp nào, chẳng hạn như luyện khí công. Khi ăn những chất ít độc tố, mà mắc phải chất độc nào, chúng ta dùng khí công trong lúc tọa Thiền sẽ đẩy được chất độc ra ngoài. Các Thầy tu của phái Thiếu Lâm khỏe mạnh nhất vì đã loại bỏ được chất độc ra khỏi thân và tâm. Theo kinh nghiệm riêng tôi, khi làm việc nhiều, cơ thể chúng ta không điều hòa. Chúng ta phải có thời gian tu tập Thiền quán để điều hòa lại cơ thể. Chúng ta ngồi yên, thư giãn, không suy nghĩ, để các hệ thần kinh tự điều hòa; vì cơ thể chúng ta là một cỗ máy kỳ diệu có khả năng tự loại bỏ độc tố.

Làm việc nhiều, lo lắng nhiều, dồn dập lâu ngày dễ thành bệnh. Chúng ta phải cho cơ thể nghỉ ngơi một khoảng thời gian nhất định. Riêng tôi, đối với những bệnh cảm cúm, tôi không uống thuốc, vì biết cơ thể có khả năng điều chỉnh và biết các siêu vi gây cảm cúm thường có chu kỳ sống trong khoảng 2 tuần. Vì vậy, chúng ta hạn chế làm việc, nghỉ ngơi để cơ thể có sức đề kháng chống lại siêu vi này. Ngoài ra, nếu biết vận công tạo thành sức nóng trong cơ thể cũng tống khứ được các siêu vi. Đối với những người không vận công được, có thể nấu nước xông với các lá cây trợ lực làm toát mồ hôi và ăn bát cháo gừng tạo thêm sức nóng bên trong thì cũng hết bệnh, không cần uống thuốc. Nhiều người lạm dụng thuốc, cơ thể trở thành suy yếu đến mức không còn sức đề kháng.

Vị A la hán không sợ lạnh nóng. Còn chúng ta lạnh một chút là mặc áo len, bảo vệ mình quá kỹ nên lâu ngày, lớp da không còn sức đề kháng. Hoặc trời nóng, chúng ta mở quạt, có gió tạo cảm giác mát, nhưng thực không mát, vì chúng ta đã làm tăng thêm nhiệt trong phòng. Ở Thiền viện Nhật, họ dạy tôi rằng trời lạnh tắm nước lạnh, trời nóng tắm nước nóng. Trời nóng tắm nước nóng không còn cảm thấy nóng, vì da của chúng ta tiếp thu nước nóng, nên gặp khí nóng bên ngoài, không cảm thấy nóng nữa. Ngược lại, trời lạnh thì tế bào da tự co lại, giúp cho cơ thể giữ được hơi ấm trong người chúng ta. Nhật Liên tông áp dụng pháp tu, mùa Đông họ lên núi Thân Duyên tu, ngồi ngoài tuyết, không mặc áo, chỉ đóng một cái khố. Ai chịu được lạnh, không bệnh, được coi là cao Tăng.

Muốn trở thành nhà truyền đạo phải rèn luyện cơ thể khỏe mạnh là bước đầu. Cơ thể hay phần sắc điều chỉnh tốt rồi, nghĩ đến tâm quan trọng hơn. Tâm chủ yếu là thọ, tưởng, hành, thức.

Trước tiên, chúng ta điều chỉnh thọ. Theo Duy Thức có khổ thọ, lạc thọ và xả thọ. Người tu tập xả, cái gì cũng bỏ, không lưu lại trong tâm; xả cho nhẹ, ghim giữ trong tâm thêm phiền. Người đời thì thích hỷ lạc, tránh khổ, nhưng càng tránh, khổ càng bao vây, càng tìm vui, nó càng tránh xa. Ngày nay chúng ta thấy rõ điều này. Con người muốn được an lạc là muốn tiện nghi cuộc sống thật nhiều, thì họ càng phá hại quả địa cầu này trầm trọng hơn. Các nhà máy không có hệ thống xử lý chất thải đã gây nguy hiểm nhiều cho sức khỏe con người. Hoặc máy điều hòa cho một vài người hưởng khí lạnh, nhưng thải ra khí nóng và khí độc cho nhiều người và cả trái đất cùng gánh chịu. Đức Phật đã thấy vấn đề này từ xưa, ngày nay chúng ta mới biết. Cuộc sống quan trọng nhất là cân bằng sinh thái để ngôi nhà chung là trái đất có tuổi thọ lâu dài và an toàn.

Để trái đất được sự sống cân bằng, không bị nhiễm ô, Đức Phật dạy chúng ta cách sống tri túc; nghĩa là hạn chế yêu cầu của con người càng nhiều thì sinh thái của trái đất càng dễ cân bằng. Yêu cầu càng lớn, như phải sử dụng số lượng lớn dầu hỏa hay gỗ sẽ làm cho trái đất chúng ta nóng lạnh bất bình thường, không còn cân bằng sẽ dẫn đến sự tồn tại của nó không an toàn, không lâu dài.

Đối với cảm thọ, Phật dạy chúng ta hạn chế yêu cầu tối đa, những gì khắc phục được thì không đòi hỏi. Người tu không cầu lạc thú thì khổ cũng không tới; không thấy khổ, không thấy vui mới trụ được xả thọ, tâm hồn thanh thản. Cuộc sống tu hành không đòi hỏi xã hội và người làm gì cho ta, thì người mới đến với ta. Và ta đến với người chỉ để đáp ứng yêu cầu của họ, nhất định họ sẽ quý mến ta.

Thực hành xả thọ là làm thế nào tránh được yêu cầu của bản thân đến mức tối đa, giải thoát sẽ tới. Người tu giải thoát ở đâu, ăn thế nào cũng được, không đòi hỏi có nhiều tiện nghi, vì càng nhiều tiện nghi càng bị lệ thuộc. Đức Phật đã thể nghiệm cách sống như vậy và dạy chúng ta.

Tiếp theo phần thọ là tưởng và hành. Trí óc con người luôn luôn suy nghĩ, tính toán, Phật gọi là tưởng uẩn. Tưởng có hai thứ, đối với vọng tưởng điên đảo, chúng ta phải trừ bỏ, vì chúng ta nghĩ lung tung, tưởng tượng những việc không bao giờ có thì quả là vô ích. Nhưng chúng ta dứt vọng tưởng mà trở thành gỗ đá thì cũng không đúng. Phật dạy chúng ta nên gom suy nghĩ lại, tức tập trung để tạo cho chúng ta cái nhìn chính xác; vì tán tâm thì không thể quán sát sự vật đúng đắn. Có thể lấy ví dụ điển hình về sức mạnh của tâm tập trung giống như chúng ta dùng cái kính chiếu vô mặt trời để gom sức nóng hội tụ vào một điểm thành điểm nóng, sẽ phát ra sức nóng đốt cháy được giấy. Tâm chúng ta cũng thế, phải gom nó lại một điểm để rọi vào vấn đề nào, sẽ cho chúng ta đáp số chính xác. Trong kinh diễn tả rằng chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện.

Tùy theo sức tập trung mà có những cái nhìn đúng đắn khác nhau, phàm phu không tập trung được, chư Thiên không tán tâm, chỉ nhìn thấy niềm vui. Nhị thừa thấy muôn sự muôn vật không có thực thể, nên không tham đắm, được giải thoát. Và Bồ tát thấy cao hơn, thấy thật tướng của mọi loài và thấy cách ứng xử tốt đẹp tương ưng cho từng người, từng loài, từng việc.

Theo Phật, chúng ta phải khéo sử dụng cái tưởng, nó rất quý báu nếu sử dụng đúng, không biết sử dụng, nó trở thành hại. Tôi thường nói tập trung tư tưởng để nhìn qua lăng kính Phật hay nhìn đời theo cách của Phật, Bồ tát, thấy giá trị thực của cuộc đời, nên phiền não không phát sanh. Sử dụng tưởng cho chính xác cao độ và dùng đó làm hành trang đi vào cuộc đời gọi là hành uẩn, nghĩa là nghĩ ra cách cứu đời và vào đời để cứu giúp người.

Trải qua quá trình tu, điều chỉnh thân và tâm, có được trí tuệ tuyệt vời, thân khỏe mạnh; sử dụng thân tâm tốt đẹp của người hữu dụng mới dấn thân vào đời cứu vớt chúng sanh, thể hiện hình ảnh của Thánh hiền, Bồ tát ở nhân gian. Không cần biết tụng được bao nhiêu bộ kinh, tham Thiền bao nhiêu lâu, chỉ có sức khỏe tốt, thông minh và trái tim đầy nhân ái là ba chất liệu cần thiết cấu tạo nên tư cách Thánh hiền, Bồ tát. Vào nhà Như Lai là có trái tim nhân ái, không có tâm này, không thương tưởng cuộc đời không phải là đệ tử Phật.

Có đủ ba điều kiện tiên quyết này vào đời làm lợi ích cho người theo phương cách của Phật đã làm. Đức Phật được mệnh danh là đạo sĩ trầm mặc, khác với đạo sĩ Bà la môn luôn tranh cãi nhau không biết mệt; họ tập nói, tập chinh phục người bằng cách nói hơn người khác. Đức Phật yên lặng, không nói, nhưng tỏa ra đạo hạnh kỳ diệu khiến người phải kính phục, quy ngưỡng. Ngài luôn trầm mặc, nghĩa là tập trung tư tưởng và chiếu rọi vào cuộc đời thấy nơi nào cần đến, Ngài đến giáo hóa, thấy người cần cứu giúp, Ngài đến cứu giúp. Ngày nay, muốn giáo hóa có kết quả tốt, các Thầy trụ trì phải có trí tuệ và dùng trí tuệ để giáo hóa, quán sát chỗ nào cần thì giúp để họ trở thành Bồ đề quyến thuộc, nhất định thành công, đừng giáo hóa chung chung. Không phải lựa gười giàu, người giỏi, có tiếng; họ không cần ta mà tìm đến họ, sẽ bị xem thường. Riêng tôi cần người có cùng tâm niệm, cùng hạnh nguyện để hợp tác, làm việc.

Đáp ứng được yêu cầu của Phật tử, họ tìm đến chùa đông là biết tu đúng pháp, làm tròn vai trò của trụ trì. Trái lại, làm mất lòng Phật tử, họ bỏ chùa là sai. Tuy nhiên, cần phân biệt để điều chỉnh, nếu hết duyên ở chùa này, thì phải đến chỗ khác tu, thậm chí hết duyên ở thế giới này phải đi thế giới khác. Hết duyên, Phật tử không đến, ta đi tìm chỗ có duyên, người có duyên để độ. Phật cũng chỉ độ được người có duyên, ngay cả hội Pháp Hoa còn có 5.000 người rời đạo tràng vì hết duyên. Duyên Thầy trò có thì họ sống chết hết lòng với ta, nhưng hết duyên, nhiều khi trở thành thù. Nếu họ không bỏ đi thì ta đi. Lịch sử cho thấy Tổ Bồ Đề Đạt Ma hành đạo, hết duyên ở Ấn Độ, Ngài cũng bỏ nơi này mà sang Trung Hoa tìm Huệ Khả để độ, mở ra trang sử mới cho Thiền tông. Hoặc Tỳ Ni Đa Lưu Chi độ Giới Hiền thành lập tông Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở Việt Nam cũng theo tinh thần tìm người có duyên để độ.

Chúng ta mỗi người mặc áo Bắc tông, Nam tông, hay Khất sĩ cũng rõ ràng thể hiện cái duyên của chúng ta với tông phái ấy. Trên bước đường tu, duyên với chùa, với người, với pháp môn tu… là điều quan trọng. Tùy duyên mà hành đạo, ngược lại, không giáo hóa được còn gây phiền hà cho ta và người.

Muốn làm đạo, phải tạo duyên, về sau mới có quả lành. Tạo ác duyên thì sanh trên cuộc đời, ta luôn gặp ác, người đã tạo được thiện duyên, đôi khi làm sai, vẫn được kết quả tốt. Phật dạy chúng ta tu hành phải thấy nhân duyên. Nhân duyên đầy đủ thì việc tự thành, không thể khác. Chúng ta muốn khác thì phải tạo duyên khác. Thật vậy, mọi vật biến đổi không ngừng, chúng ta tùy theo duyên biến đổi ấy mà hành đạo, ngược lại là tự chuốc họa vào thân. Thí dụ, tôi ở chùa nào, thấy người thương mình nhiều, người ghét ít, thì biết ở đây làm đạo được. Vì đối với người thương, ta trân trọng họ, tạo thêm cảm tình tốt với họ; đối với người ghét gây khó khăn, ta không buồn phiền, tìm cách tùy hỷ với những việc tốt của họ để chuyển đổi ác duyên thành thiện duyên với họ. Đối với người thờ ơ, chúng ta tìm duyên để kết nối, quan hệ với họ. Muốn làm bạn với họ, ta tập trung tư tưởng xem họ muốn gì, nghĩ gì, theo đó ta tùy thuận thì không có vấn đề xảy ra. Thí dụ người không muốn ta làm gì, chỉ muốn ta đi cho khuất mắt thì ta phải chào từ giã thôi. Nhưng mình đi rồi, họ lại cảm thấy nặng lòng; còn mình ở lại, dù cố gắng làm gì, họ cũng không vui. Chúng ta đi nơi khác mà có được đời sống cao hơn, họ sẽ quý trọng ta, còn ta sống thấp hơn, họ sẽ thương ta.

Người đối với chúng ta chưa có duyên lành, chúng ta phải kết duyên lành hay trồng căn lành bằng cách làm theo ý muốn của họ, đương nhiên vài lần, họ sẽ cảm tình tốt với ta; làm ngược lại ý người, chắc chắn trên cuộc đời này không ai thích bị trái ý, chẳng những không được quý mến mà nhiều khi còn chuốc họa không nhỏ, tất nhiên không thể được yên thân tu hành, tâm cũng không thể an ổn, nói chi đến làm được việc cao xa hơn.

Cầu mong chư tôn đức được thân khỏe, trí sáng, tấm lòng từ bi quảng đại, làm cho Phật pháp trường tồn lợi lạc trên thế gian này.