Sách
(Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 45, tại chùa Phổ Quang ngày 2 -11-2008)
Giáo dục con cái là vấn đề quan trọng nhất trong việc kế thừa sự nghiệp gia đình; vì nếu không giáo dục con cái, thế hệ kế thừa của chúng ta bị sẽ hư hỏng, thì sự nghiệp gia đình cũng bị tiêu tan. Nhưng muốn giáo dục con cái, bản thân chúng ta phải là người gương mẫu trước nhất, mới dạy dỗ con cái chúng ta được. Thật vậy, nếu bản thân của chúng ta không tốt, chắc chắn không thể nào dạy con tốt được. Vì vậy, ngày xưa khi một người biết rằng họ có lỗi lầm, không thể là tấm gương cho con noi theo, thì họ phải tìm cách gửi con cho một người có tài năng, có đức hạnh, có uy tín để nhờ dạy dỗ con họ.
Cổ nhân bảo rằng dạy con từ thuở còn thơ, nghĩa là khi con còn nhỏ dại, chưa biết gì, lúc đó, chúng ta đầu tư cho nó những đức tính tốt, để mai sau nó lớn lên, nhớ lại những điều tốt đẹp đã được ươm mầm từ thuở nhỏ mà nó sẽ sống tốt. Tôi có những người bạn tâm sự rằng trong thời kỳ chiến tranh, khi gặp những điều nguy hiểm nhất trong cuộc đời, lúc đó, họ liền nhớ tới Phật, nhớ tới chùa. Tôi hỏi cụ nhớ cái gì, ông ta mới nói với tôi rằng nhớ lúc còn bé, mẹ có dắt tới chùa Vĩnh Tràng. Vì vậy, khi đối diện trước tai họa thì hình ảnh chùa Vĩnh Tràng liền hiện ra, tượng Phật liền hiện ra trong tâm trí họ và nhờ đó mà họ vững tin, bình tỉnh đối phó, giúp họ thoát nạn.
Thực tế cho thấy những gì xảy ra trong thời thơ ấu thường in sâu vào lòng chúng ta, có thể nói là khó quên nhất. Còn khi lớn lên trên cuộc đời, chúng ta thường chịu ảnh hưởng của xã hội; xã hội tốt thì chúng ta tốt, xã hội xấu thì chúng ta xấu. Điều này ngày nay được gọi là môi trường sống. Nếu môi trường sống tốt sẽ tác động chúng ta trở thành người tốt và ngược lại, ở trong môi trường sống xấu sẽ khiến chúng ta bị xấu theo.
Nhận chân rõ sự tác động mãnh liệt của môi trường sống vào con người, cho nên việc đầu tiên của Đức Phật Di Đà ở thế giới Tây phương Cực Lạc là Ngài lo xây dựng môi trường sống ở quốc độ của Ngài thật tốt, thật vui, thì cư dân sống ở đó chịu ảnh hưởng môi trường hoàn toàn tốt đẹp ấy mà tự động họ phải tốt, phải vui thôi.
Học giáo pháp của Đức Phật, chúng ta nhận thấy điều này rất rõ ràng. Sống trong môi trường thật tốt, thì người xấu không thể nào làm điều xấu được, vì không có điều kiện cho họ phát khởi tánh xấu; cho nên họ bắt buộc phải sống tốt theo mọi người. Khi tu học ở Nhật Bản, tôi thấy xã hội Nhật chịu ảnh hưởng truyền thống Phật giáo, cho nên người dân được giáo dục từ thuở nhỏ, giữ giới không gian tham, trộm cắp đến độ trở thành thói quen của họ trong cuộc sống. Vì vậy, gần như ở Nhật ít có vấn đề gian tham trộm cắp xảy ra như các nước khác. Trong xã hội mà đa số hay tất cả mọi người đều không gian tham trộm cắp, nếu có một người xấu vào sống chung ở đó, họ cũng không thể nào phát huy được tánh xấu của họ và dần dần họ cũng trở thành tốt. Như vậy, người Nhật đã biết áp dụng pháp tu Tịnh độ của Đức Phật Di Đà trong cuộc sống của họ bằng cách xây dựng thế giới thanh tịnh trước, thì tự nhiên con người thanh tịnh theo.
Ở thế giới Cực Lạc hoàn toàn thanh tịnh, có một điều rất đặc biệt mà các Phật tử nên lưu tâm. Nơi đó, đại chúng do Liên Hoa hóa sanh, nghĩa là được sinh ra từ hoa sen, có cha là Đức Phật Di Đà và mẹ là hoa sen; nói cách khác, đó là mô hình xây dựng Tịnh độ, hay xây dựng xã hội theo Phật giáo. Cha là Phật, tức tiêu biểu cho trí tuệ, mẹ là hoa sen tiêu biểu cho đức hạnh. Kết hợp trí tuệ và đức hạnh là những hạt giống hoàn toàn tốt, mới sinh ra một đứa con tốt. Người cha và người mẹ đều tốt và môi trường sống cũng tốt thì chắc chắn đứa con phải hoàn hảo. Còn những đứa trẻ sinh ra bất đắc dĩ, nghĩa là người cha không tốt như cờ bạc, rượu chè, hung ác ... thì làm sao sinh được đứa con ngoan hiền.
Môi trường sống ở thế giới Cực Lạc hoàn toàn trong sạch, tiêu biểu cho hoa sen tinh khiết ở trong bùn mà không nhiễm bùn, không hôi tanh mùi bùn. Trong khi con người sinh ra ở Ta bà này là thế giới mà bản chất của nó là ô nhiễm, gọi là ngũ trược gồm có kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược.
Vì vậy, con người được cấu tạo bằng những tố chất nhiễm ô, thì mạng sống phải uế trược rồi, không thể nào trong sạch như hoa sen được. Và kiếp sống của con người, tức là thời kỳ cũng xấu nhất. Lịch sử Phật giáo Việt Nam cho thấy ở thời kỳ vàng son thường có những bậc Thánh Tăng hiện hữu giáo hóa độ sinh, còn ở thời kỳ đen tối thì phàm Tăng cũng không có. Cho nên sống trong kiếp nạn như vậy thì người ta khó tốt được, gọi là kiếp trược. Còn kiến trược là cái thấy của chúng ta thường bị việc chướng tai gai mắt tác động làm cho tâm chúng ta trở thành bất an, thành xấu đi. Ví dụ các Phật tử bước chân vào giảng đường này, nếu thấy một người nào đó có hành vi, cử chỉ hay lời nói thô ác, khiến quý vị phải sinh tâm bực bội liền. Hoàn cảnh đã tạo nên kiến trược phát sinh như vậy đó. Trái lại, nếu chúng ta vào giảng đường thấy tất cả mọi người đều trang nghiêm thanh tịnh, đều yên lặng lắng nghe giáo pháp, đều an lạc thì chắc chắn tâm chúng ta cũng sẽ an lạc theo. Đây là điểm quan trọng, vì kiếp trược mà sinh ra kiến trược và từ cái thấy không bằng lòng, phiền não nhân đây nổi dậy, gọi là phiền não trược. Thật vậy, thấy những người xung quanh mà chúng ta không bằng lòng, nên thường khởi lên ý niệm phiền não; phiền não này chủ yếu là tham, sân, si, mạn, nghi. Thí dụ nhìn thấy vị Pháp sư giảng kinh không hạp ý, chúng ta liền sinh tâm nghi ngờ, không biết vị này nói có đúng hay không. Nghi Tăng đã, rồi lại nghi pháp, cho đến nghi chính mình nữa. Do khởi phiền não nên tự nghĩ rằng Phật làm được, nhưng chư Tăng không làm được, thì không biết mình có làm được hay không. Nếu không sinh nghi thì sinh ra ngã mạn. Người ngã mạn, tức là tự cao tự đại, thật ra họ học hành không bằng ai, năng lực làm việc cũng kém cỏi, nhưng thích xem thường người khác và tự đề cao họ. Trên cuộc đời này, nếu trong xã hội có nhiều người ngã mạn thì nguy hiểm vô cùng, làm thì không được, nhưng chê thì giỏi lắm. Ngoài ra, còn có hàng tăng thượng mạn, người đời gọi hạng người này là điếc không sợ súng. Bản thân họ không ra sao, chẳng những họ chê bai người khác mà còn chê luôn cả Hiền Thánh nữa.
Ngoài hai phiền não là mạn và nghi, còn ba phiền não căn bản là tham, sân, si. Lòng tham làm cho người ta mờ mắt và lòng bực tức cũng khiến con người không còn sáng suốt, trở thành ngu muội là si. Tất cả mọi người trên cuộc đời thường vướng vào chỗ này, kiến trược sinh ra thì nhất định có phiền não và phiền não trược luôn luôn bao vây chúng ta, phá hỏng cuộc sống của chúng ta. Tất cả mọi người đều chịu sự chi phối của ngũ trược như vậy; nhưng duy nhất có Đức Phật Thích Ca xuất hiện trên cuộc đời với thân tâm thuần khiết như đóa sen, gọi là Liên Hoa hóa sanh. Mặc dù Ngài sinh ở thế giới Ta bà trong đời ngũ trược ác thế, nhưng tâm của Ngài không uế trược chút nào; không phải Ngài thành Phật rồi mới có tâm trong sáng. Bản chất của Đức Phật khi còn là thái tử đã thuần tịnh rồi, đã có sẵn trí tuệ, có sẵn đạo đức, có sẵn lòng từ bi vô hạn.
Ở thế giới Cực Lạc của Đức Phật Di Đà thì từ hoa sen hóa sanh thật; nhưng ở thế giới Ta bà này, không ai từ đất nẻ sinh ra, cũng không có ai sinh ra từ hoa sen, tất cả mọi người đều do cha mẹ sinh ra. Cho nên, yếu tố quyết định là cha mẹ, cha mẹ quan trọng là vậy. Nhưng cha mẹ cũng phải có tư chất ở mức độ nào đó mới có thể tiêu biểu cho hoa sen. Ở Việt Nam, người thôn quê thể hiện ý này qua câu nói chí lý rằng mua heo thì lựa nái, mua gái thì lựa dòng. Giống lợn tốt thì sinh ra heo con tốt, dòng giống người mẹ tốt, tức bản chất tốt mới sinh ra đứa con tốt được. Lựa người mẹ tốt là tốt cái gì ? Nếu cơ thể tốt, ngoại hình tốt và sức khỏe tốt thì đứa con cũng tốt theo. Ngoài ra, ngày nay còn có thêm một sự lựa chọn nữa là không có bệnh di truyền của dòng họ. Chẳng hạn trong gia đình có người bị bệnh ung thư thì người thân của họ có thể dễ mắc bệnh ung thư.
Sức khỏe tốt và ngoại hình tốt chỉ là tốt về thể xác thôi, đối với đạo Phật, chúng ta còn cái quan trọng hơn, là cái tâm tốt. Dù sức khỏe và ngoại hình tốt, nhưng cái tâm của người mẹ tham lam quá, hung dữ quá, sẽ sinh ra đứa con không tốt. Điển hình như trong lịch sử Trung Quốc có Đức Khổng Tử là nhà đạo đức nổi tiếng, làm thầy của thiên hạ, nhưng con trai ông lại là đạo chích cũng nổi danh. Người cha tốt như vậy mà sao người con lại tệ như thế. Vì trí tuệ của Khổng Tử truyền sang cho đạo chích, anh ta được hưởng sự thông minh từ người cha như vậy, nên giỏi không ai vượt qua nổi. Nhưng được thừa hưởng trí thông minh của người cha mà anh ta cũng hưởng luôn tánh tham lam ích kỷ của người mẹ, mới tạo thành tên đạo chích khét tiếng.
Trí khôn của người cha nếu được cộng với đạo đức của người mẹ, như trường hợp vua Tịnh Phạn rất tài giỏi kết hợp với đức hạnh của hoàng hậu Ma Gia thì sinh ra thái tử Tất Đạt Đa thông minh, tài đức vẹn toàn. Theo sử ghi lại, dòng họ của Đức Phật Thích Ca nổi tiếng bảy đời hiền đức, vua Tịnh Phạn là đời thứ bảy tiêu biểu cho dòng giống gia đình thông minh và hoàn toàn tốt.
Vì vậy, khi chọn người mẹ, ngoài sức khỏe và ngoại hình tốt, cái tâm phải tốt nữa. Tâm người mẹ tốt thì lúc mang thai, họ đã dạy được con từ trong bào thai, không phải đợi đứa con ra đời mới dạy. Cho nên, người xưa khuyên rằng người phụ nữ mang thai thấy cái gì không chính thì không làm; thậm chí chiếc chiếu trải không ngay ngắn cũng không ngồi lên, phải sửa chiếu lại cho ngay thẳng đàng hoàng rồi mới ngồi. Nghĩa là người phụ nữ mang thai phải có tánh ngay thẳng, tâm tánh ngay thẳng thì nhìn cái gì cũng phải ngay thẳng, thấy cái gì không ngay thẳng là phải chỉnh sửa lại. Trong đạo Phật gọi là phải có tâm ngay thật trước. Và tâm ngay thẳng được thể hiện qua việc sắp xếp mọi vật trong nhà, trong vườn, hay trong cuộc sống chúng ta cho ngăn nắp. Vì vậy, vào nhà nào mà thấy từ ngoài cổng cho đến trong nhà bừa bãi, thì chúng ta biết gia đình này dù họ giàu có đi nữa, cũng không tốt; vì sự vật bừa bãi là biểu hiện của cái tâm bừa bãi. Sắp xếp nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, ngày nay gọi là gia đình có văn hóa. Văn hóa này phát xuất từ người mẹ biết để tâm trông nom con cái và sắp xếp gia đình gọn gàng sạch sẽ.
Người mẹ dạy con từ trong bào thai, vì tất cả suy nghĩ, lời nói, việc làm của người mẹ đều đầu tư vô cho đứa nhỏ nằm trong bụng. Thật vậy, lúc đứa nhỏ ở trong thai mẹ, nó có cùng một nhịp thở với mẹ, cùng một suy nghĩ với mẹ; nói cách khác, đứa bé lấy nhịp thở của mẹ làm nhịp thở của nó, lấy suy nghĩ của mẹ làm suy nghĩ của nó, lấy sự sống của mẹ làm sự sống của nó. Cho nên, người mẹ không tốt thì không thể nào dạy đứa con tốt được. Người mẹ tốt mới dạy được đứa con tốt. Việc này chắc chắn như vậy rồi, không thể khác hơn được. Vì vậy, người đang mang thai nên nhìn cái đẹp, trong nhà nên thoáng mát, có ánh sáng, có không khí đầy đủ, lại có thêm những lọ hoa đẹp, những bức tranh đẹp. Đây là điều quan trọng cho việc giáo dục thai nhi. Vì người mẹ mang thai nhìn thấy cảnh vật đẹp đẽ như vậy, họ sẽ hài lòng, ưa thích, và sự hoan hỷ đó ở trong suy nghĩ của họ, trong tâm họ, sẽ trực tiếp ảnh hưởng cho tâm hồn đứa trẻ được an vui, hạnh phúc theo.
Những việc thực tế xảy ra trong xã hội cho chúng ta thấy rằng có những người lúc mang thai gặp việc không may như làm ăn thất bại, hoặc có người thân qua đời thì họ sinh ra đứa con có gương mặt buồn rầu; vì tâm trạng buồn rầu này do người mẹ đầu tư cho con khi còn trong thai mẹ.
Ngoài ra, người mẹ đọc kinh điển, đọc sách thánh hiền chắc chắn cũng ảnh hưởng tốt đẹp cho đứa trẻ. Trong đạo tràng Pháp Hoa, có nhiều Phật tử đến thưa với tôi rằng con của họ mới một, hai tuổi mà thấy tượng Phật là biết cúi đầu. Vì lúc mang thai, bà thường hay lạy Phật, thường tụng kinh, nghĩa là đứa bé đã nghe kinh từ trong bụng mẹ, đã từng cúi đầu trước Phật từ trong bụng mẹ, cho nên bây giờ thấy tượng Phật là nó thấy quen, tự động cúi đầu như nó đã từng làm trong bụng mẹ.
Cho nên, khi đứa trẻ mở mắt chào đời cho đến lúc tròn 12 tuổi, trong thời kỳ này gọi là thời niên thiếu rất quan trọng đối với việc giáo dục đứa trẻ, vì nó dễ dàng chịu ảnh hưởng rất sâu đậm bởi những người chung quanh, bởi môi trường sống của nó. Tấm gương điển hình nói lên sự ý thức sâu sắc của người mẹ về môi trường sống tác động cho đứa con tốt hay xấu như thế nào là trường hợp bà mẹ của Ngài Mạnh Tử. Bà sống gần lò giết mổ heo, nên con của bà là Mạnh Tử thường qua lò heo chơi. Về nhà, ông cũng bắt chước những động tác giết mổ heo mà ông chứng kiến hàng ngày. Điều này đã khiến bà lo sợ đứa con sẽ bị lây nhiễm tánh ác độc và học theo việc sát sanh tội lỗi. Bà liền dọn nhà đến nơi khác, ở gần nhà thầy giáo dạy học để tạo điều kiện cho con bà được học hỏi mỗi ngày, được thấm nhuần đạo lý thánh hiền.
Tóm lại, việc giáo dục con cái của các Phật tử là nên dạy dỗ đứa trẻ từ trong thai mẹ. Và điều quan trọng tất yếu là người mẹ phải đàng hoàng, phải đứng đắn, phải ngay thật thì bấy giờ đã gieo mầm tốt, xây dựng cho đứa con có được những đức tánh tốt lành . Đó chính là nền tảng tạo dựng một gia đình hạnh phúc, đạo đức và gián tiếp đóng góp cho xã hội an vui theo tinh thần Phật giáo.