cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Giới tánh Tỳ kheo

(Bài giảng tại giới đàn Huệ Thành, chùa Long Thiền, Đồng Nai, 2006)

         Nhật Liên Thánh nhân dạy rằng trước khi Đức Phật ra đời, chánh pháp vẫn có, Tam bảo vẫn tồn tại; nhưng vì không ai thấy, không ai hiểu được giáo pháp, nên tưởng là không có. Giáo pháp ấy gọi là pháp vô tướng và Đức Phật hằng hữu, không sanh không diệt là Phật vô tướng, hay vô tướng Bổn tôn.

Hàng phàm phu bị ngũ uẩn ngăn che, không bao giờ thấy được Phật vô tướng, không biết được pháp vô tướng. Chỉ những người có căn lành sâu dày thì nương nhờ niềm tin mà nghĩ rằng có Đức Phật luôn hiện hữu trong khắp mười phương và hướng tâm về Phật, tu học Phật pháp. Thật vậy, kinh Hoa Nghiêm khẳng định rằng niềm tin là mẹ sinh ra tất cả công đức, sinh ra tất cả Như Lai. Vì vậy, nhờ niềm tin, chúng ta mới thấy được Phật, hiểu Phật và thể nghiệm được pháp; trong khi chúng sinh bị nghiệp chướng nặng nề ngăn che, nên họ không thể tin Phật, nói chi đến thấy Phật và hiểu được giáo pháp của ngài .

Chính vì thương xót chúng sinh mà Đức Phật Thích Ca hiện thân trên thế gian này. Phật Thích Ca là một trong thiên bá ức hóa thân của Đức Phật bất sinh bất diệt hằng hữu trong Pháp giới; nơi nào có nhân duyên, Phật liền xuất hiện nơi đó để giáo hóa chúng sinh. Và khi Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời, mang thân tứ đại như mọi người, thì họ lại tưởng lầm rằng Phật cũng là người tầm thường giống họ. Sự thật tuy Đức Phật mang thân người, nhưng trong tâm trí của Ngài đã có đầy đủ phước đức vô lượng và hiểu biết siêu tuyệt của đấng Toàn giác. Còn chúng sinh hàm chứa trong tâm toàn là tánh ác xấu và tâm mê muội của phàm phu trôi lăn trong sáu đường sinh tử.

Nhìn bề ngoài con người ngũ uẩn, thì mọi người giống nhau, nhưng trong tâm trí của mỗi người, không ai giống ai. Vì tánh bên trong mỗi người khác nhau, cho nên trên bước đường tiến tu đạo nghiệp, có người đạt kết quả rất chậm, có người thăng hoa rất nhanh. Nếu là hàng thượng căn, bên trong sẵn có tánh từ bi của Phật và tâm trí sáng, thì từ hạt giống Bồ đề này mà khởi tu, chắc chắn họ phát huy thành quả rất dễ dàng và nhanh chóng. Còn hàng trung căn và hạ căn tuy không có nhiều hạt giống tốt lành, nhưng nhờ nghe pháp cũng lần thâm nhập và tiến tu được.

Với căn lành sẵn có, hàng thượng căn thấy Phật, hoặc nghe pháp, căn lành của họ liền được đánh thức và đạt được quả vị A la hán ngay; điển hình như Xá Lợi Phất thấy Phật liền đắc A la hán. Trong khi năm anh em tôn giả Kiều Trần Như thì kết quả tu hành nhanh chậm có khác nhau. Trong năm vị này, người đầu tiên nghe pháp Tứ Thánh đế liền đắc A la hán. Bốn người còn lại, sau một mùa an cư cũng đạt được quả vị A la hán. Đó là giáo đoàn đầu tiên do Đức Phật sáng lập. Nhưng lần lần về sau, số người tu hành theo Phật đông hơn, từ 1250 Tỳ kheo đầu tiên cho đến hàng vạn Tỳ kheo sau đó tu trong giáo pháp Phật, có người thấy Phật và đắc quả Tu đà hoàn, hoặc Tư đà hàm, A na hàm cho đến A la hán. Có người thì sau một mùa an cư đắc đạo. Hàng trung căn, hạ căn còn chậm hơn, vì do túc nghiệp nhiều đời ngăn che, nên sống gần Phật mà không thấy Phật, hay có lúc thấy Phật có lúc không.

Vì thương xót những người bị nghiệp chướng ngăn che như vậy, cho nên Đức Phật đã chuyển đổi Tứ Thánh đế vô tác thành Tứ đế sinh diệt để dạy cho họ dễ dàng tu tập. Với Tứ Thánh đế vô tác, tất nhiên không cần nói, chỉ cần thông qua bản tâm thanh tịnh là đắc đạo. Trong khi với sinh diệt Tứ đế, thì tùy theo pháp có sinh có diệt, mà Phật nói khổ, tập, diệt, đạo.

Và như vậy, khổ tập diệt đạo hay Tứ đế sinh diệt vừa là giáo pháp cũng vừa là luật pháp mà Đức Phật đã giảng dạy cho Tỳ kheo thời bấy giờ. Mặc dù Đức Phật đã đưa ra pháp Tứ đế sinh diệt dễ thực hành hơn vô tác Tứ đế, nhưng lại có những người chậm hiểu cũng không thể thực hành pháp Tứ đế sinh diệt để đắc đạo. Vì vậy, mỗi lúc lại có thêm người phạm lỗi lầm. Từ đó, Phật mới đặt thêm những giới điều như năm giới cho cư sĩ tại gia, mười giới tập sự của Sa di, 250 giới Tỳ kheo, 350 giới Tỳ kheo Ni. Đó là tất cả những giới tướng, giới điều mà Đức Phật phải chế đặt do chư Tăng không thanh tịnh phạm phải lỗi lầm trên bước đường tu.

Từ đó về sau, tất cả những ai muốn tu hành, trở thành đệ tử Phật đều phải lãnh thọ đầy đủ những giới điều này được gọi là giới biệt giải thoát, nghĩa là tu được phần nào thì giải thoát phần đó, tức phần phá vô minh, phần chứng Pháp thân.

Các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Sa di lãnh thọ giáo pháp rồi mới lãnh thọ được giới tướng do Hòa thượng truyền cho, do Thầy Yết ma tác bạch và do đại chúng đồng tình. Như vậy, giới tướng của quý vị mới được thiết lập; đó là luật trong đạo chúng ta. Thiếu những điều kiện này, tức không có Hòa thượng truyền giới, không có Thầy Yết ma tác pháp và không được đại chúng đồng ý, thì không thành tựu hình thức Sa di, Tỳ kheo.

Hôm nay các giới tử đã hội đủ duyên lành khó có. Đức Phật dạy thân người khó được. Thật vậy, trong tứ sanh lục đạo, chỉ loài người có điều kiện tu học dễ dàng để đạt đến quả vị Toàn giác; còn các loài khác không thể có những yếu tố thuận lợi như thế. Vì vậy, nếu để mất thân người, muôn kiếp chưa chắc có lại được. Chúng ta thử quan sát các loài sinh vật khác, chúng sinh sản rất nhiều và rất nhanh hơn loài người, như một ổ kiến hay một đàn cá sinh nở vô số con.

Được làm người đã rất khó, mà được xuất gia tu học Phật pháp lại còn khó hơn nữa. Trên thế giới có sáu tỷ người, nhưng số người xuất gia được là bao. Đức Phật cũng dạy rằng vì có những giá nạn, tức bị những điều trở ngại mà không thể trở thành Tỳ kheo, như sinh trong thời kỳ không gặp được Phật pháp, hoặc sinh trong gia đình có tín ngưỡng tôn giáo khác, sinh ở những châu lục mà Phật pháp chưa truyền bá đến, v.v… thì làm thế nào được xuất gia, được thọ giới, được nghe pháp, hiểu pháp và tu hành. Ngay như ở An Độ một trăm năm trước cũng không có người xuất gia theo đạo Phật. Mãi đến khi An Độ độc lập, nhờ Thủ tướng Nerhu cho thành lập Viện Phật học Nalanda, đạo Phật mới bắt đầu được phục hồi. Tuy nhiên, khi Phật giáo Ấn bắt đầu gầy dựng lại, nhưng cũng do các Thầy Bà la môn giảng dạy Phật pháp. Mãi về sau mới có các nhà sư Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan, v.v… sang Ấn Độ học và truyền bá đạo Phật; ngày nay mới có một số chùa của các nước trên thế giới sang xây dựng. Một tỷ dân Ấn, nhưng chưa được mười triệu người Ấn theo đạo Phật. Hoặc 2.000 năm trước, Phật giáo Việt Nam chưa có, nhưng Phật giáo ở Afghanistan đã ở vào thời kỳ vàng son, có nhiều tượng Phật cổ cao đến 60, 70m. Vậy mà ngày nay, không còn bóng dáng tu sĩ Phật giáo ở nước này, vì chỉ còn Hồi giáo. Chúng ta thấy gặp Phật pháp quả là khó khăn.

Trở lại Việt Nam, nếu một trăm năm trước, gặp Phật pháp cũng rất khó. Điển hình như 60 năm trước, tôi xuất gia, khi đến chùa Long Thiền, tôi còn là Sa di. Phải nói là tôi rất may mắn được hầu cố đại lão Hòa thượng pháp sư Huệ Thành. Lúc ấy được nghe giáo pháp không nhiều như bây giờ. Có người xuất gia ở chùa, chỉ giữ chùa, chứ không được nghe giáo pháp, không hiểu giáo pháp. Trong thời kỳ đó, tôi đến một số chùa, có nhiều Thầy tụng kinh Di Đà, nhưng không hiểu nghĩa kinh, nói chi đến ứng dụng pháp Phật trong cuộc sống tu hành. Phải đọc kinh, phải hiểu kinh và ứng dụng đúng yếu nghĩa kinh, thì mới thành tựu tư cách của Tỳ kheo.

Ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi cũng đã hầu Hòa thượng Pháp Lan, được nghe pháp, tôi cảm thấy quá mừng. Về sau, vào Phật học đường Nam Việt ở chùa An Quang, mới có lớp học Phật pháp. Rõ ràng Phật pháp rất khó được. Ở thời kỳ đó, phải chờ rất lâu mới có giới đàn. Tôi còn nhớ vào năm 1955-1956, có giới đàn đầu tiên tại chùa Long Thiền và giới đàn thứ hai tại chùa Linh Nguyên, Đức Hòa, tôi thọ Sa di ở đó. Tôi xuất gia đã bao năm ở chùa, nhưng không có giới đàn để thọ giới; không như bây giờ, quý vị may mắn sinh trong thời Phật pháp hưng thạnh, ba năm lại có giới đàn. Trong tháng 10 năm nay đã mở ba giới đàn ở ba điểm: thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu với trên 3.000 giới tử thọ giới. Vào thời kỳ tôi thọ Cụ túc giới, chỉ có chín người được thọ giới. Thời gian đó được thọ giới đã khó, thời trước đó chắc chắn còn khó hơn nhiều. Có người tu suốt đời chưa được đăng đàn thọ giới.

Chúng ta may mắn sống trong thời kỳ đất nước độc lập, thống nhất và Giáo hội đang trên đà phát triển. Lại có phước duyên được xuất gia, thọ giới để tấn tu đạo nghiệp, một việc mà thời kỳ trước chúng ta chưa có và thời kỳ sau chúng ta, không biết còn được như vậy hay không. Vì vậy, quý Tăng Ni phải biết trân trọng giữ gìn những điều khó có đã được và từ giới tướng này giúp chúng ta tu hành để thành tựu giới tánh Tỳ kheo.

Giới tướng thọ trước, giới tánh mới thành tựu sau. Vì thế, người mới thọ giới khác với người thọ giới đã năm, mười năm. Nếu đúng pháp tu hành, từng bước chúng ta phát triển đường đạo, vì đã thành tựu được giới tánh từng phần theo từng năm tháng tu hành. Đó là kinh nghiệm mà tôi muốn nhắc nhở quý vị thọ giới hôm nay.

Mới thọ giới Sa di hay Tỳ kheo, chúng ta thường có cảm giác từ đây bị những giới điều này ràng buộc. Lúc thọ giới, quỳ trước hội đồng thập sư, các giới tử đều nói "Mô Phật, giữ được”; nhưng trở về chùa, quý vị có giữ đúng giới luật hay không mới là việc quan trọng. Nếu cố gắng giữ giới, lâu ngày sẽ trở thành tánh Tỳ kheo, nghĩa là thuần thục được tư cách của người xuất gia. Thật vậy, mới tu, thấy bị giới ràng buộc, nhưng tu đúng pháp, một thời gian thấy nhờ giới mà chúng ta được giải thoát.

Đối với tôi, vào mùa an cư đầu tiên, khi Hòa thượng Thiện Hòa cắm cột mốc bốn hướng, không được vượt qua ranh giới này, tôi cảm giác như bị nhốt trong khuôn giới trường, không được ra khỏi chùa thấy bực bội. Nửa tháng đầu, sinh bệnh, vì không được phép đi ra ngoài cảm thấy như bị thiếu hụt, nghĩa là thấy giới ràng buộc. Nhưng mùa hạ thứ hai, thứ ba, tôi cảm thấy quen lần. Cứ đến mùa an cư, thấy mình không còn bị những việc thế tục quấy rầy, nên rất thích ở yên trong chùa. Nhưng kể từ khi được Giáo hội giao trách nhiệm Trưởng ban Hoằng pháp, cố Hòa thượng Trí Thủ đã dạy tôi rằng nếu mùa an cư, chúng Tăng cấm túc mà Thầy không đi giảng dạy, thì hết mùa an cư, chư Tăng không còn tập trung lại, Thầy dạy ai. Lúc đó, tôi suy nghĩ đắn đo nhiều. Không đi giảng dạy mùa an cư thì thấy mình thiếu bổn phận, mà đi thì rất khó, vì đã tu tập quen đến mùa hạ là muốn ở yên trong chùa, lo sám hối, tụng kinh, tham Thiền, những thói quen này trở thành tánh Tỳ kheo rồi. Phải đi mùa an cư lúc ấy là cả một suy nghĩ, tính toán khó đối với tôi. Cuối cùng, cố Hòa thượng Thiện Hào dạy rằng Thầy cứ coi như Tăng sai là Thầy đi mà vẫn ở trong Tăng chúng. Từ đó, tôi ý thức thêm rằng hễ Tăng sai, ta làm là làm cho Tăng, nên ta vẫn ở trong giới pháp của Tăng. Tuy thân đi ra ngoại giới làm Phật sự, nhưng tâm chúng ta vẫn an trụ ở trong Tăng. Nếu tâm quý Thầy cách ly Tăng chúng, xa lìa Giáo hội là đã bị loại ra ngoài, mặc dù không ai nói gì, nhưng không còn ở trong giới pháp Phật. Ý này thường được gọi là "Mặc tẩn”, tức bị mọi người bỏ rơi, tuy còn hình tướng Tỳ kheo, nhưng thực chất tánh Tỳ kheo không thành tựu. Lỗi lầm này rất nặng, Phật ví như hòn đá vỡ làm hai, không thể kết dính lại được, hoặc như cây Sa La bị chặt đứt ngọn không thể lên được nữa. Cần luôn ý thức rằng dù có tan thân mất mạng, nhưng quý vị phải luôn giữ gìn tâm mình nối kết chặt chẽ với tâm Phật, với tâm đại chúng, với Giáo hội. Được như vậy, chúng ta mới tồn tại trong nhà Phật, phát triển được đạo nghiệp, đắc đạo trong giới pháp và được gặp minh sư, thiện hữu tri thức.

Mới thọ giới, bị ràng buộc. Nỗ lực tu hành, sống quen với giới và thành tựu giới tánh, thì thấy nhờ giới mà được giải thoát; đó chính là giới sanh định và định phát huệ. Do giới sanh định, vì nhờ ở các mùa hạ đầu tiên đã giữ kỹ giới luật bằng cách mỗi ngày đọc tụng, suy nghĩ về giới pháp.

Khi Phật tại thế, chư Tăng hành đạo ở nơi nào cũng phải tập họp lại để đọc tụng giới; vì lúc đó, chưa có kinh sách, nên không thể tự tụng được, phải tập họp về đạo tràng nhờ luật sư Ưu Ba Ly tụng giới cho nghe. Lúc đầu chỉ có 5 giới rồi đến 10 giới cho đến 30 giới, v.v… cứ như vậy mà giới pháp được tăng thêm. Hàng trung hạ nghe giới, có điều nhớ, điều quên; nhưng Ưu Ba Ly nghe điều giới nào Phật dạy, Ngài nhớ đủ không sót. Khi Phật Niết bàn, Ca Diếp thỉnh Ưu Ba Ly tụng lại giới bổn cho đại chúng cùng nghe. Thời Phật tại thế, hay sau Phật Niết bàn khoảng 100 năm, chỉ tụng thuộc lòng giới bổn, không có sách. Mãi 300 năm sau, thời vua A Dục mới kiết tập kinh điển và giới luật, in trên lá dừa.

Thời xưa, vì không có sách, muốn nghe giới, phải tìm Luật sư thuộc giới, hiểu giới dạy chúng ta. Theo quy định, phải hầu Thầy năm năm để Thầy dạy chúng ta tu giới; vì chúng ta không tự biết, không thấy được sai phạm của mình, cho nên cần sống gần Thầy để được nhắc nhở.

Ngày nay, việc đọc giới không khó vì chúng ta có sẵn sách luật Sa di, Tỳ kheo. Mỗi ngày quý vị phải đọc giới bổn một lần, mới thấy điều giữ được, điều không giữ được. Nếu giữ không được, có phạm thì sám hối, tâm chúng ta thanh tịnh lần, giới thể hiện ra và có được tướng giải thoát của Tỳ kheo. Thọ giới xong mà không đọc tụng giới, không tìm hiểu, không thực hành giới pháp, không nhờ Thầy chỉ dẫn, chắc chắn không bao giờ hiểu biết giới pháp, tất nhiên không bao giờ thành tựu tánh Tỳ kheo và không thể trở thành pháp khí Đại thừa, mà trở thành phá pháp.

Ngày nay, ngoài phần giới bổn, còn có bộ Tứ Phần Như Thích là bộ luật đã giải thích các giới điều mà chúng ta đã thọ lãnh. Theo tôi, quý vị mới thọ giới, mỗi ngày cần tụng giới bổn một lần và mỗi tháng phải đọc một lần phần giải thích giới. Đọc phần giải thích, nếu có điều không hiểu, hoặc gặp chướng duyên, phải cầu các bậc cao minh chuyên về giới pháp chỉ dạy; vì trong phần giới có khai, giá, trì, phạm.

Tôi may mắn thân cận với Hòa thượng Thiện Hòa trong suốt tám năm. Ngài chuyên trì luật và tôi học luật với Ngài. Nhờ vậy, tôi thành tựu được tánh Tỳ kheo, cho nên trải qua suốt thời kỳ dài, từ Giáo hội Lục Hòa Tăng cho đến Giáo hội Tăng già Nam Việt, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và ngày nay là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi luôn gắn liền với sinh hoạt Phật pháp, ít phạm sai lầm, mới tồn tại vững vàng trong đạo pháp.

Tôi mong rằng quý Tăng Ni có phước duyên được xuất gia và thọ giới, cần siêng năng đọc tụng giới bổn, thân cận thiện tri thức, thực tập cho thành tựu tánh Tỳ kheo và tu hành tinh tấn cho đến đạt được quả vị Toàn giác. Cầu nguyện chư Phật, chư Bồ tát gia hộ cho quý vị thọ giới, đắc giới, thành tựu giới thể thanh tịnh để xứng đáng là trưởng tử của Như lai, là bóng mát cho chúng sinh nương nhờ để mọi người phát huy được nhận thức theo chánh pháp và sống an lành, đầy tình thương trong sáng trong Nhà lửa tam giới.