cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Mỉm cười trong đau khổ

(Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 72 tại chùa Phổ Quang ngày 5-7-2009)

         Cười trên sự đau khổ của người khác là ác. Cười trong đau khổ của chính mình, gọi là cười ra nước mắt, thì cũng không phải.Chủ đề này tôi muốn nói là nụ cười của hành giả Pháp Hoa, hay nói khác, nụ cười của Đức Phật.

Chúng ta học Phật cũng học theo nụ cười của Phật, vì Phật dạy rằng từ vô lượng kiếp xa xưa, Ngài cũng từng là chúng sinh, nên cũng đã nếm mùi đau khổ tận cùng ở địa ngục A tỳ; nhưng cũng có lúc Ngài hưởng lạc thú của thiên đường. Có thể thấy rõ cuộc đời của chúng sinh lẫn lộn khổ vui, hết vui đến khổ, hết khổ lại vui. Còn ở cõi Trời thì chỉ có vui, không khổ; nhưng hưởng hết phước là hết vui rồi khổ sinh ra và rớt xuống trần gian thì vui ít mà khổ nhiều, phải trầm luân trong sinh tử. Và tạo thêm ác nghiệp nữa thì chẳng còn niềm vui nào cả, chỉ toàn là khổ và khổ mà thôi, tức là đã đọa vào địa ngục. Đây là kinh nghiệm sống mà Đức Phật đã từng trải qua; cho nên Ngài quyết chí tu hành, thành tựu quả vị Phật. Từ đó Ngài đưa ra tất cả pháp môn nhằm giải quyết mọi việc của chúng sinh một cách tốt đẹp.

Đức Phật dạy trong kinh Pháp Hoa rằng, nếu nhìn bằng mắt Phật thì không có sinh tử, không có khổ đau, nhưng vì chúng sinh bị vô minh, vọng kiến ngăn che, nên sinh các tánh ham muốn khác nhau, tạo tội sai biệt. Vì vậy, chúng sinh mới trôi lăn trong sinh tử.

Tạo tội sai biệt và khổ đau là nghiệp thuộc về ảo giác, không có thực. Nói cách khác, nghiệp phát xuất từ lòng ham muốn, từ đó mới sinh ra nghiệp, mới dẫn đến khổ đau. Đức Phật và Thánh chúng ngộ đạo, đắc đạo, thấy không có khổ đau và các Ngài chứng được Niết bàn, tức ở trong trạng thái tâm hoàn toàn thanh thản. Vì vậy, khi chúng ta tĩnh lặng, quán sát cuộc đời, thấy rõ nỗi khổ hay niềm vui đều do con người tưởng ra mà có; như vậy, cuộc sống khổ vui đều do con người tự quyết định cho mình. Đối trước một sự việc, người này thấy khổ, nhưng người khác thấy vui.

Nhìn theo Phật, thấy rõ chúng sinh trong tam giới không ai khổ cả, nhưng nói có khổ là do tâm khổ. Ví dụ tất cả Phật tử ngồi trong hội trường này, sinh hoạt giống nhau, thân tứ đại cũng giống nhau, không có khổ. Tuy nhiên, trong đại chúng, mỗi người có tâm tưởng khác nhau, vì nghiệp duyên khác nhau; cho nên tạo khổ, khổ này là do tâm tạo ra. Có người nói do nghèo, do mất người thân, do làm ăn sa sút, nên khổ; đương nhiên những điều này có thể do hoàn cảnh bên ngoài tác động đến tâm chúng ta, nhưng phần chính yếu vẫn do tâm chúng ta quyết định khổ hay vui.

Thật vậy, Đức Phật đã trải thân thể nghiệm điều này. Khi còn ở ngôi vị Thái tử, Ngài hưởng phú quý vinh hoa tột đỉnh; nhưng Ngài cảm thấy khổ vì bịnhốt trong ngục vàng, thân và tâm không được tự do, đi đâu cũng có người đi theo hầu hạ và không phải muốn đi đâu cũng được. Mặc dù sống trong nhung lụa, Ngài đã nhận thấy xã hội ràng buộc Ngài đủ cách, hàng trăm dây phiền não, hàng ngàn dây trói buộc Ngài, gọi là thập triền thập sử. Như vậy, chúng ta thấy không phải người sống vinh hoa, phú quý, giàu sang không khổ, mà chính vì cuộc sống giàu sang làm người ta khổ. Người giàu khổ thậm chí đến mất ăn mất ngủ. Tôi tiếp xúc với những doanh nhân quản lý hàng vạn công nhân, họ nói với tôi rằng họ quá khổ. Quản lý một doanh nghiệp lớn không dễ chút nào, sơ hở một chút là bị phá sản. Người làm vua, làm tướng cũng khổ. Ta chưa bước chân vào đó, nên không thấy được cái khổ này. Làm vua thì phải lo cho đất nước, lo cho sự sống của mọi người, lo cho an ninh chung; sơ hở là loạn. Còn hôn quân vô đạo thì bị gian thần chi phối, cho đến sụp đổ, chết như chơi. Vì vậy, những người có phước báu mà không biết giữ gìn thì biến phước thành nghiệp trong chớp mắt. Người đi tìm sự an lạc trong phú quý vinh hoa cũng giống như người khát tìm nước trong sa mạc.

Các Tỳ kheo không có thức ăn để dành vẫn sống an lạc như thường. Còn người chủ đàn bò có dư tiền của dùng cả năm không hết, nhưng lại quá đau khổ là do vô minh, vọng kiến mà sinh ra. Chúng ta nhận thấy trong thực tế cuộc sống, người có phước không tham lam, không chấp trước; nhưng nhờ cóphước, cho nên những điều tốt lành tự tới với họ. Còn nếu chúng ta trôi lăn trong sinh tử nhiều đời, tạo tất cả nghiệp ác, thì oan gia nghiệp chướng cũng sắp hàng đến với mình, hết oan gia này đến oan gia khác, đi tu cũng không trốn được. Tuy nhiên, oan gia tìm đến đòi nhưng chỉ đòi được người thiếu nợ thôi; vì khôngnợ thì làm sao họ đòi được.

Các vị Thiền sư luôn mỉm cười an lạc trong Thiền quán, vì các Ngài vui trong nội tâm. Ở bên ngoài, cuộc sống vật chất có thể không có thức ăn, không có chỗ nghỉ, nhưng lòng tham muốn của các Ngài không còn, thì sự nghiệp vật chất có nghĩa gì; lòng thương ghét không còn thì có gì làm khổ các Ngài được. Chúng ta thấy cuộc sống của các Ngài đạm bạc, tưởng rằng các Ngài khổ, nhưng có khổ đâu. Đức Phật khi tu khổ hạnh, da bụng dính xương sống, nhưng Ngài không hề khổ; trong khi chúng sinh có đủ thứ, mà vẫn luôn khổ, vì không thỏa mãn lòng tham không đáy, mới dẫn đến việc đi sâu vào tội lỗi, cho đến phải trả cái án tử hình mới tạm thời chấm dứt cái khổ của thân vật chất, còn cái khổ của tưởng ấm, hành ấm và thức ấm vẫn tiếp tục tiếp diễn trong cái thân trung ấm, làm nhân cho sự tái sinh vào thế giới khổ đau tương ưng với nghiệp của họ.

Vì vậy, Đức Phật nói rằng từ không sinh tử mà tạo nên sinh tử, không khổ mà tạo khổ, từ khổ trong tâm tạo thành tất cả nỗi khổ của chúng sinh. Từ khổ của địa ngục trần gian là thân tứ đại và tạo tội thật thì vào địa ngục khổ hơn nữa, cho đến cái khổ không bao giờ chấm dứt ở địa ngục A tỳ. Đức Phật cũng từng vào địa ngục A tỳ, nên Ngài mang kinh nghiệm này dạy chúng ta. Chúng ta học Phật, thức tỉnh, không đi con đường này, mà đi ngược dòng theo Phật để tháo gỡ nghiệp chướng, phiền não, trần lao. Nghiệp chướng không cho sinh, phiền não khởi thì cắt bỏ.

Trên bước đường tu, đối diện với khổ đau, nghiệp chướng, phiền não, vẫn mỉm cười được; vì chúng ta nhận diện được nó. Thấy nó, chúng ta mừng và mỉm cười. Nhận diện bằng cách nào? Đời trước chúng ta thiếu họ tiền, nên biết họ là chủ nợ của mình. Chủ nợ gần nhất của mọi người là vợ, là con, là sự nghiệp; vì khi chưa có ba thứ này thì có gì ràng buộc mình, hoàn toàn được thanh thản, tự do. Vì vậy, người đời thường nói rằng sướng nhất là tuổi học trò chỉ biết ăn và học thôi; nhưng khi có vợ con, có nhà ở thì khác rồi. Lúc đó, con là nợ, vợ chồng là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng. Tu như quý Thầy là sướng, nhưng cũng chưa chắc; vì nếu có nợ mà trốn vô chùa, họ cũng sẽ theo đòi.

Người đời có được vợ con, tạo được nhà cửa, việc làm, bề ngoài thấy sướng, gọi là an bề gia thất; nhưng bên trong, lòng rối bời, bao nhiêu việc đặt ra cho họ. Nếu vợ con, cửa nhà do phước báu mà có là thiện nghiệp thì cũng còn sướng được phần nào; nhưng do ác nghiệp mà thành thì khổ ơi là khổ. Nghĩa là sự nghiệp do ác nghiệp tạo thì người ta phải làm tôi mọi cho nó. Địa ngục này còn nặng hơn địa ngục A tỳ; vì địa ngục A tỳ còn có ngày mãn. Còn địa ngục này không có bản án, nên người ta trở thành nô lệ cho sự nghiệp, nô lệ cho công nhân, nô lệ cho gia đình. Tất cả những thứ này thật sự không có, nhưng vì người ta tự tạo nghiệp cho mình, tự tạo phiền não cho mình.

Nhìn theo Phật huệ, thấy ai cũng được an lạc, giải thoát; chỉ vì vô minh mà tạo ác nghiệp và từ nghiệp này sinh ra nghiệp khác chồng chất không chịu nổi để rồi rơi vào địa ngục. Nương Phật pháp, có thể tháo gỡ nghiệp và phiền não. Đầu tiên, Phật khuyên chúng ta quy y Tam bảo, nghĩa là hướng tâm về Phật, Pháp và Tăng. Trước kia, chúng ta hướng tâm theo nghiệp, theo ham muốn; cho nên từ nguồn sông mê mà dẫn lọt vào biển khổ. Nhìn thực tế cuộc sống cũng nhận ra cái khổ không thoát được. Chúng ta phải tìm chỗ nương tựa và Tam bảo là chỗ nương tựa quý giá nhất. Ngài Nhật Liên cũng nói trong bốn trọng ơn là ơn cha mẹ, ơn Thầy bạn, ơn xã hội, ơn thí chủ thì chỉ có ơn Phật là lớn nhất. Xá Lợi Phất cũng từng bộc bạch với Phật rằng ơn Phật dù có dùng đầu đội, dùng hai vai cõng vác trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp cũng không đền đáp được công ơn cứu độ của Phật.

Vì vậy, hàng đệ tử Phật giác ngộ, đều phát tâm quy y Tam bảo bằng tất cả tấm lòng. Người quy y Phật đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như, sau đó, giáo đoàn được mở rộng, Đức Phật mới quy định rằng ai muốn làm đệ tử Phật phải quy y theo Phật, theo giáo pháp và sống hòa hợp trong tập thể Tăng đoàn. Nương theo Tam bảo, chúng ta mới tháo gỡ lần những ràng buộc, phiền não. Nhiều người tu mà không nhận ra yếu lý này, cho nên càng tu lại càng thấy bị ràng buộc hơn, phiền não hơn. Nương tập thể Tăng để tự tháo gỡ phiền não, trần lao, nghiệp chướng. Ngược lại, nếu kết bè đảng với ác ma, tức tập hợp vớinhóm người vô minh thì sẽ dẫn vào đường ác.

Phật tử nên hiểu rằng quy y Phật là đi theo con đường sáng, trước tiên là từ Phật tâm của mình hướng về Đức Phật thật để tạo mối quan hệ giữa ta với Phật. Nhờ Phật hộ niệm, dìu dắt, tâm ta sáng lần và từ lòng chúng ta tin Phật và tiếp nhận hào quang Phật soi rọi, lòng chúng ta sáng lần, vô minh tan, nghiệp chướng mất, là ham muốn không còn nữa thì sự nghiệp của chúng ta lớn và lâu dài. Thật vậy, chúng ta không tham muốn, nhưng nhờ sống với phước đức và trí tuệ của mình, cho nên bạn bè thương mến, gần gũi, hợp tác, chúng ta dễ dàng tạo dựng và phát triển được sự nghiệp.

Các Phật tử đạo tràng Pháp Hoa phát tâm quy y, khởi đầu có pháp y màu vàng tiêu biểu cho Tam bảo, nhắc nhở quý vị suốt đời chỉ nương vào Phật để nhờ Phật huệ rọi sáng tâm ta, nương vào giáo pháp của Phật để mở mang trí tuệ của ta và nương vào tập thể Tăng sống trong chánh pháp, có đời sống phạm hạnh thật sự đều là Thầy mình để ta nhận được sự an lành. Và bên trong pháp y có miếng vải màu trắng tiêu biểu cho niềm tin trong trắng của chúng ta đối với Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng để sống. Trên pháp y có 7 hạt sen tròn và 8 cánh sen tiêu biểu cho Thất Bồ đề phần và Bát chánh đạo. Trong Thất Bồ đề phần, quan trọng nhất là Trạch pháp, tức là lựa pháp tu thích hợp với mình để phát sanh được công đức và trí tuệ; không biết lựa pháp thích hợp thì dễ sinh ra phiền não.

Riêng tôi, từ thuở nhỏ đã trì kinh Pháp Hoa và Thầy tôi là Hòa thượng Trí Đức học Pháp Hoa với Tổ Thiên Thai. Ngài dạy Hòa thượng chỉ tụng quyển thứ 7 của kinh Pháp Hoa thôi và trì chú Chuẩn Đề, lạy ngũ hối nghi. Thầy tôitin lời Tổ một cách tuyệt đối, Tổ nói sao thì làm đúng như vậy và làm đúng thì được an lành. Tôi suy nghĩ tìm ý Tổ xem tại sao Ngài bảo chỉ tụng quyển 7 của kinh Pháp Hoa. Tôi nhận thấy trong quyển thứ 7, có Bồ tát Diệu Âm xuất hiện trên cuộc đời như là hoa sen. Ngài ở thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông, nhưng xuất hiện ở núi Kỳ Xà Quật, hay hiện thân trên cuộc đời này ở trên hoa sen. Điều đó nhằm dạy chúng ta rằng tu Pháp Hoa, phải làm sao trụ tâm ở Diệu Hỷ, nhưng hiện hữu trên cuộc đời là hoa sen. Còn chúng ta mang thân tứ đại mà bệnh hoạn, đòi hỏi đủ điều thì dễ chuốc họa vào thân. Tâm ở Niết bàn là không đòi hỏi bất cứ thứ gì của trần gian này, chúng ta mới sống được ở Ta bà. Chúng ta có đòi hỏi nào thì sẽ có phản ứng tự nhiên ngược lại liền; muốn ăn thì người ta sẽ quên phát phần ăn cho mình. Nếu biết đó là nghiệp khảo thì nên mỉm cười.

Ngoài ra, trong quyển thứ 7 kinh Pháp Hoa, có Bồ tát Quan Âm xuất hiện trên cuộc đời theo yêu cầu của chúng sinh. Học theo hạnh của Ngài, ta đến đâu vì yêu cầu của người, không bắt buộc người theo ta, chắc chắn được an lạc. Riêng tôi, không bắt ai làm, nhưng người đến xin làm thì tôi mới chia sẻ. Hòa thượng Trí Tịnh dạy rằng Phật pháp phải đem sinh mạng để đánh đổi còn chưa được, đâu phải cá ươn mà nài ép người.

Điều thứ ba học theo Bồ tát là muốn làm Phật sự, nên tự xét coi công đức ta có đủ hay không, trí tuệ có chưa. Nghĩa là hành đạo, phải nghĩ đến Bồ tát Phổ Hiền có thần thông tự tại, uy đức vô song là điều quan trọng. Đối với các pháp, ta có tự tại chưa, uy đức của ta hàng phục được ma oán không. Người khác chưa kính nể ta thì đừng làm. Uy đức của Phổ Hiền vô song mới làm được và Ngài còn có vô số Bồ tát hợp tác với Ngài, đó là quyến thuộc Bồ đề. Muốn làm được việc lớn, xem quyến thuộc Bồ đề của chúng ta có bao nhiêu và thuộc thành phần nào.

Đức Phật Thích Ca thọ ký cho Bồ tát Di Lặc kế đây thành Phật, nhưng Đức Di Lặc chưa ra đời, vì quyến thuộc của Ngài chưa thuần thục. Nếu quyến thuộc của mình toàn là nghèo đói, bệnh hoạn thì làm được gì. Quyến thuộc thuần thục là tâm được thanh tịnh, phước đức đầy đủ, thì Đức Di Lặc mới ra đời làm Phật.

Tôi gặp Hòa thượng Giác Chánh, Ngài nói một câu tôi nghe cũng tâm đắc. Hòa thượng nói rằng "Tôi sanh trên cuộc đời này, không thể hoằng pháp lợi sanh được, vì không có quốc vương, vương tử, đại thần hộ pháp”. VìHòa thượng sinh ở thời kỳ Pháp thuộc, nên phải ẩn tu. Ngài tu hành rất nghiêm túc,Ngài Thiền thay cho ngủ, nên suốt đời ngồi, không nằm; đó là một bậc cao Tăng hiếm có trên thế gian.

Bồ tát Phổ Hiền xuất hiện trên cuộc đời, vì có vô số Bồ tát thuần thục đi theo Ngài; người làm vua, người làm tướng, người làm quan ủng hộ thì Phật pháp mới hưng thạnh. Điều này khiến tôi liên tưởng đến Thiền sư Vạn Hạnh và Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Các Ngài hiện thân trên cuộc đời có nhiều quyến thuộc tốt và tài giỏi, sống chết với các Ngài để cùng xây dựng đất nước và phát triển Phật pháp. Còn chúng ta có quyến thuộc mà người phá hại thì nhiều, người xây dựng thì ít, cho nên khó làm được việc lớn. Ngoài ra, Bồ tát Phổ Hiền đến đâu thì trời mưa hoa, châu báu rảixuống, mang an lạc cho trời người.

Đọc quyển thứ 7 kinh Pháp Hoa, tôi nhận ra cốt tủy như vậy, cho nên tôi nỗ lực xây dựng quyến thuộc Bồ đề và phát huy công đức của mình. Vì vậy, phải cố gắng tiêu dùng ít để thặng dư mới làm được. Có phước đức thì quyến thuộc tốt, làm được nhiều việc và mang an lạc đến cho người.

Trong Bổn môn Pháp Hoa, phần chính yếu được Ngài Nhật Liên dạy là chỉ đọc tụng phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16, phẩm Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 và nửa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, không tụng trọn bộ kinh Pháp Hoa. Và Ngài cũng ngộ đạo, đắc đạo thực; cho nên Ngài làm được việc lớn. Trước tiên là Ngài mỉm cười được với cuộc đời trong bất cứ tình huống nào; vì Ngài thấy được thật tướng các pháp, lý giải được muôn sự muôn việc của trần gian, không bị vướng mắc, khổ lụy.

Theo phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 nói về thọ mạng của Đức Phật, thì Phật không có sinh tử, tức Phật ở Niết bàn và Ngài có lục vạn hằng hà sa quyến thuộc là Bồ tát Tùng địa dũng xuất. Ngộ được yếu nghĩa này, tôi luôn cầu nguyện Bồ tát Tùng địa dũng xuất giúp đỡ tôi. Tụng Bổn môn Pháp Hoa, nhắm vô Bồ tát Tùng địa dũng xuất ngang qua thế giới nội tâm thanh tịnh của mình, thì nhận được sự hỗ trợ bên trong từ thế giới vô hình, cho nên người xung quanh không ai biết, không ai tranh giành được. Tôi nhớ Hòa thượng Trí Thủ từng dạy tôi rằng "Ta biết, Phật biết, nó không biết, nên không phá ta được. Chỉ có sự gắn bó giữa ta và Phật cùng Bồ tát, cứ như thế mà ta phát triển trên bước đường tu”. Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa, Di Lặc Bồ tát hỏi Phật rằng Ngài mới xuất hiện trên cuộc đời hơn 40 năm, làm sao giáo hóa độ được vô số Bồ tát kim sắc thân như vậy.

Tu Bổn môn Pháp Hoa, theo Ngài Nhật Liên, phải thấy được Bồ tát Tùng địa dũng xuất và kết nối được với các Ngài bằng cách tu bốn hạnh của bốn vị Bồ tát Tùng địa dũng xuất thượng thủ là Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh và An Lập Hạnh, thì sẽ nhận được lực gia bị của các Ngài. Tôi rất tâm đắc với lý này, cho nên gặp hoàn cảnh khó khăn, khổ đau, tôi mỉm cười được; vì biết các Ngài luôn gia hộ cho mình, nên không lo sợ.

Nửa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, ý chính là Đức Phật bảo Di Lặc rằng khi Ngài nói thọ mạng dài lâu của Đức Như Lai là Phật Pháp thân, thì có vô số Bồ tát chứng được Vô sanh pháp nhẫn, Văn trì đà la ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển được pháp luân bất thối và phát đại tâm cầu Vô thượng đạo.

Văn trì đà la ni là người nghe rồi, nhớ được, hiểu được và làm theo được; vì đà la ni là huệ. Cho nên nghe phải thấm sâu vào lòng, có thể quên ngôn ngữ, nhưng pháp âm Phật vang trong lòng, mới sống được với pháp, gọi là ngày đêm tự mình nương pháp ở, tức thăng hoa được tâm linh.

Nhạo thuyết biện tài là nói pháp hoài mà không chán và người nghe cũng không chán. Có bốn thứ biện tài là từ biện tài, nghĩa biện tài, lý biện tài và nhạo thuyết biện tài.

Chuyển được pháp luân bất thối, nghĩa là bản thân ta bất thoái chuyển và chúng ta dạy người nghe cũng được bất thoái chuyển, một mạch tiến tới Vô thượng Bồ đề, không bỏ cuộc nửa chừng.

Tóm lại, nhận chân được tinh ba của pháp Phật, chúng ta không lo mất thân tứ đại, vì chúng ta đã có chân linh, sống được với chân linh và có quyến thuộc Bồ đề. Vì vậy, cuộc đời này diễn ra như thế nào là việc của nó, có khó khăn hay nguy hiểm, khổ đau, chúng ta cũng an nhiên mỉm cười và từng bước chúng ta vượt qua. Các bậc cao Tăng đi trước đã thể nghiệm yếu nghĩa này một cách rõ nét trong cuộc đời giáo hóa độ sinh của các Ngài. Bước theo dấu chân các Ngài, chúng ta học với các Ngài, tiếp thu được những yếu lý và phát huy trong cuộc sống của mình, chắc chắn sẽ gặt hái được những điều kỳ diệu như Phật và chư vị Tổ sư đã thành tựu.