Sách
(Bài giảng lớp Giảng sư Trung cấp ngày 4-10-2002)
Khi giảng một bộ kinh nhiều lần mà người còn nghe được là biết chúng ta đã có được những sự đổi mới liên tục về ý nghĩa kinh. Và những ý tưởng mới ấy đã kết hợp được với trình độ của từng chúng hội qua những thời điểm khác nhau và đã thích hợp với sinh hoạt của xã hội cũng như tương ưng với sự phát triển của khoa học. Thuyết giảng theo phương cách như vậy, người nghe mới không chán và thể hiện được sự triển khai Phật pháp theo tinh thần Đại thừa.
Đức Phật cũng đã thuyết pháp theo cách này. Thật vậy, từ thời pháp đầu tiên cho đến thời Pháp Hoa, Ngài cũng chỉ dạy những pháp căn bản như Tứ Thánh đế, Thập nhị nhân duyên và Lục ba la mật, không có gì thay đổi. Tuy nhiên, tùy theo chúng hội đạo tràng ở từng nơi Ngài đến khác nhau, tùy theo phong tục, tập quán, tùy những nếp nghĩ, nếp sống của từng vùng khác nhau mà Phật đã triển khai thành những bài pháp khác nhau trong hơn 300 hội.
Ngày nay, nếu chúng ta giảng lệch ra ngoài những pháp căn bản nói trên thì khôngphải là Phật pháp. Tuy nhiên, mỗi thời giảng chúng ta phải kết hợp được giáo pháp với những cái mới trong sinh hoạt hiện đại. Cái mới đó chính là tùy chỗ, tùy lúc, tùy người mà Giảng sư phải biết để triển khai cho phù hợp với nếp sống đương thời của chúng ta.
Giảng pháp tùy người, vì mỗi người có trình độ khác nhau, đơn giản có ba hạng là cao, thấp, trung bình. Với người ở trình độ thấp, giảng cao thì họ không thể tiếp thu được. Chúng ta phải triển khai ý nghĩa ở mức độ ngang tầm hiểu biết của họ. Thí dụ tôi về miền Tây giảng thành công, vì ở vùng đó phần nhiều người ta chỉ theo đạo bằng niềm tin, bằng cảm tính. Vì vậy, không lạ gì khi Tổ Huệ Lưu xưa kia hành đạo ở miền Tây đã soạn ra bái sám Huệ Lưu mang tính cách bình dân. Hoặc Đức Phật của chúng ta giảng kinh Pháp Hoa về một vấn đề gì xong thì Ngài lặp lại ý đó bằng một bài kệ, tức vừa có văn xuôi và cả văn vần. Nói cách khác, Ngài triển khai những triết lý sâu xa đầy đủ rồi thì thu ngắn lại cho dễ nhớ.
Ngày nay bước theo dấu chân Phật, tất yếu chúng ta cũng phải làm như vậy. Tôi dịch kinh Di Đà và trong vài tháng, Phật tử thỉnh cả chục ngàn bản để tụng, vì chủ yếu tôi dịch cho dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc, nên được đa số chấp nhận. Các anh em nên nhớ có lúc chúng ta không cần đưa ra những điều cao siêu và cũng chỉ diễn tả bằng lối văn bình dân, mộc mạc. Các Thầy Khất sĩ rất thành thạo với việc này, đều biết làm thơ, những bài thơ ngắn, giản dị, nhưng có tác dụng dễ đi vào lòng người.
Trên bước đường thuyết pháp ở miền Tây, tôi đã cảm tác bài sám Pháp Hoa thậtđơn giản, nhưng Phật tử ở đó cảm tâm nên đọc đến rơi lệ. Ngoài ra, ở miền Tây có đền thờ Bà Chúa Xứ rất nổi tiếng, dân chúng ở các tỉnh miền Nam thường về đó cầu xin. Điều này cho chúng ta thấy niềm tin của họ là tin vào những gì thiêng liêng, mầu nhiệm.
Chúng ta thuyết pháp cũng phải đưa ra những cái mầu nhiệm, họ mới chấp nhận được. Vì vậy, trong bài sám Pháp Hoa, tôi có một số ý mộc mạc như: "… Cầu xin thổ địa sơn thần, bà con quyến thuộc xa gần tin theo. Cầu xin Thích tử Tỳ kheo, giữ tâm trong sạch tu theo Phật Đà. Cầu xin tất cả mọi nhà, ăn chay niệm Phật lên tòa Như Lai …”. Với người chỉ có niềm tin và cầu xin, nhưng chúng ta triển khai rằng không thể dùng niềm tin và cầu xin mà được, phải tự lực, tự tu mới phát triển được trí tuệ. Giảng như vậy, chắc chắn họ không chấp nhận thì pháp hay mà dùng không đúng người cũng trở thành không hay.
Theo tôi, những người chỉ có niềm tin đơn thuần, chúng ta triển khai pháp cho họ, nên lồng vấn đề tái sinh, nhân quả là họ thích liền. Riêng tôi, khi giảng Pháp Hoa, thể hiện ý này, tôi thường dẫn chứng những thí dụ mà Đức Phật nói trong kinh. Chẳng hạn như Phật cho A Nan biết rằng ông đã phát tâm cùng một lúc với Phật Thích Ca từ thời Phật Không Vương. Nghĩa là từ thời quá khứ xa xưa, A Nan đã tu hành với Phật Thích Ca và đã phát nguyện đời nào cũng được theo Phật, nghe pháp, ghi lại tất cả lời Phật dạy. Vì hạnh nguyện từ quá khứ như vậy, nên dẫn đến hiện đời, A Nan rất tài giỏi, được coi như bậc đa văn đệ nhất.
Hoặc kể câu chuyện mà Hoà thượng Thiện Hoa thường nhắc là ngày xưa có nàng bạch tịnh rất nghèo đến độ không có áo mặc, chỉ có một tấm vải duy nhất để che thân. Nhưng nàng ấy kính quý Phật đến mức dâng cúng Ngài tấm y này. Sự cúng dường cao quý ấy đã kết thành quả báo là nàng tái sinh thành một người giàu có và xinh đẹp.
Các câu chuyện về luân hồi nhân quả trong đạo Phật mà các anh em nêu lên để nhắc nhở người nghe cần nhớ rằng những điều tốt đẹp hôm nay là kết quả của những việc thiện ở quá khứ.
Nếu chúng ta đến thuyết giảng ở nơi mà người không có niềm tin, họ chỉ muốn hiểu nghĩa lý sâu xa của Phật pháp, phải giảng cách khác. Riêng tôi, giảng kinh Pháp Hoa, khai thác mặt nhân quả luân hồi hay triết lý sâu xa đều được. Thí dụ trước khi giảng Pháp Hoa, Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa; theo đó, người chưa phát tâm Bồ đề thì kinh này có năng lực làm cho họ phát tâm. Với người bình dân, chúng ta nói năng lực kinh như vậy thì họ nghĩ kinh linh thiêng, nên thích tụng kinh này, vì họ sẽ được sự chuyển đổi tốt. Đó là nghĩa thứ nhất của câu người chưa phát tâm làm cho họ phát tâm.
Nhưng đối với người trí thức, chúng ta phải giải thích năng lực kinh nằm ở chỗ nào. Trước nhất, năng lực kinh nằm ở chỗ ý nghĩa sâu xa của nội dung kinh. Vì vậy, kinh Pháp Hoa có nói tam châu cửu dụ nghĩa u huyền; nghĩa là nếu nhận ra được những nghĩa lý kinh tiềm ẩn trong chín thí dụ thuộc ba châu (thuyết pháp châu, thí dụ châu và nhân duyên châu) và áp dụng được trong cuộc sống thì người có trình độ tri thức cao sẽ rất thích thú và phát tâm tu theo.
Và cao hơn một bậc nữa, chúng ta triển khai ý nghĩa Phật dạy con người quyết định vận mạng của chính mình và Phật pháp hưng thịnh hay suy đồi do Tăng già quyết định. Vì vậy, theo tinh thần Vô Lượng Nghĩa, các Thầy muốn người phát tâm thì phải thể nghiệm ý này trong cuộc sống cho đạt kết quả tốt đẹp. Kinh Pháp Hoa gọi cách thuyết giảng như vậy là giảng trên quả môn, không phải giảng trên nhân môn.
Giảng trên nhân môn là chúng ta còn đang học, đang tu, chưa có kết quả trọn vẹn. Chúng ta học pháp nào thì ứng dụng pháp đó trong cuộc sống và mang dạy thành quả đã được, gọi là tự hành hóa tha. Các anh em nói với thính chúng rằng: "Tôi còn đang thể nghiệm giáo lý và có được một phần lợi lạc, nên nói cho quý vị để quý vị cũng được như tôi. Và ngược lại, nếu quý vị được thành quả nào trong pháp tu này, xin chỉ cho tôi để chúng ta cùng thăng tiến trên đường đạo”. Nếu trao đổi thành thật như vậy, người trí thức dễ chấp nhận.
Khi chúng ta nói việc mình làm đã có kết quả tốt thì họ phải thấy sự thật đúng như ta nói và nhờ ta chỉ dạy họ. Thí dụ tôi sang Nhật học bốn tháng tiếng Nhật là đủ khả năng thi đậu đại học. Các sinh viên khác mới tìm học với tôi để cũng có được kết quả như vậy. Điều này có thể tạm hiểu giống như ý nghĩa người chưa phát tâm thì làm cho họ phát tâm bằng chính thành quả của ta. Hoặc tôi mở lớp dạy tiếng Nhật cho sinh viên là dạy theo kinh nghiệm bản thân của tôi, chỉ cho họ cách học mau thuộc và nhớ dai. Tôi bảo muốn mau thuộc, phải tu Thiền, không có cách gì khác. Thầy tu hơn người đời là nhờ pháp tu này. Thật vậy, vì tu Thiền, nên có sức tập trung cao, giúp tôi hiểu rõ vấn đề. Khi giáo sư giảng, tôi tập trung lắng nghe, những gì họ giảng tôi đưa vô tâm, vô trí. Và có sức tập trung cao rồi thì mau thuộc và vấn đề sáng ra. Nhưng chúng ta phải sử dụng sự tập trung liên tục mới nhớ dai được. Không phải tôi chỉ tập trung ở lớp học, mà lúc ở trên xe, hay ăn cơm, hoặc trước khi ngủ, tôi vẫn học, vẫn suy nghĩ từng chữ, từng nét, từng nghĩa, từng câu đã học, thì làm sao mà không mau thuộc và không nhớ dai. Trong khi các sinh viên cùng học, nhưng nghe chuông báo hiệu nghỉ giải lao, thì ra ngoài chơi và tụ họp lại để tán gẫu, nghĩ việc khác là đã xóa hết những gì mới vừa học. Còn học theo kiểu Thiền thì lúc nghỉ ngơi, trong đầu mình vẫn còn lãng vãng ý tưởng hay câu văn đã học. Thiền của Đại thừa là ăn, ngủ, nói, đi, đứng, nằm, ngồi … cũng Thiền, tức áp dụng Thiền pháp trong cuộc sống hàng ngày. Tôi dạy sinh viên học như vậy thì họ áp dụng có kết quả tốt. Lấy học tập làm thú vui thì sao mà không giỏi. Đọc những câu văn hay mà mình không thể tự viết được thì chỉ còn cách học thuộc lòng và luôn lẩm nhẩm trong đầu, đến khi đi thi, sử dụng câu văn hay, chỉ đổi từ cho thích hợp, nên được nhiều điểm.
Muốn làm Giảng sư hay, các anh em phải nhớ nhiều và phải tập trung liên tục. Có thể bề ngoài, người thấy ta khờ, nhưng sinh hoạt trong tâm của chúng ta liên tục. Nói cách khác, có một thế giới riêng để ta sống là thế giới của kinh điển, của sách vở. Được như vặy thì các anh em giảng kinh mới hay.
Làm cho người phát tâm tu không có cách gì hay hơn là họ tận mắt thấy được thành quả tu hành của chúng ta. Riêng tôi, lúc trẻ làm việc ít, nhưng mệt mỏi nhiều; nhưng nay tuổi càng lớn, làm nhiều hơn mà sức khỏe lại tốt hơn. Người lớn tuổi cũng như người trẻ thấy vậy mới hỏi tôi làm cách nào, tức họ thấy thích kết quả thực tế của ta mới muốn học theo, tu theo. Đó là tinh thần thuyết pháp trên Quả môn. Tôi về quê, dòng họ bà con nói rằng tu được như ông, như chú, như bác, thì con mới tu. Nhưng làm sao để được kết quả như vậy, thì chúng ta triển khai, giảng cho họ rằng Phật dạy nghiệp quyết định cuộc đời chúng ta. Nói cách khác, giảng về ý nghĩa tu là chuyển nghiệp. Như ngày xưa còn trẻ, nhưng bị bệnh nhiều là do nghiệp. Nay nhờ lạy Phật, sám hối, nghiệp hết, nên khỏe mạnh là kết quả tu hành, chúng ta đã chuyển được nghiệp. Và xa hơn nữa, chúng ta tạo được công đức rồi, thì công đức này tự động sinh ra công đức khác, chúng ta không cần dụng công cực khổ nữa.
Ý nghĩa của việc tự sinh ra công đức được nói đến trong phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16, kinh Pháp Hoa. Đức Phật nói rằng từ thuở quá khứ xa xưa, Ngài đã tu hành đạo Bồ tát, tạo thành thọ mạng đến nay vẫn chưa hết, mà còn lớn hơn xưa. Đó chính là Báo thân Phật. Theo tinh thần Phật dạy như vậy, việc tu của chúng ta là phải tu Báo thân, hay tu để phát triển Báo thân chúng ta lớn mạnh. Tu trên sanh thân thì suốt đời cũng không được lợi ích gì, gọi là cuồng hoa vô quả.
Tu trên Báo thân, trước nhất chúng ta phải gắn liền niềm tin vững mạnh của mình với pháp Phật và xa hơn, phải hiểu nghĩa lý kinh và lấy kinh làm lẽ sống của đời mình. Như vậy lúc ăn, ngủ, làm việc hay làm bất cứ gì, trong đầu vẫn tư duy về Phật pháp, nên mỗi ngày chúng ta đều phát hiện điều hay mới lạ tiềm ẩn trong kinh. Từ đó, tư tưởng của ta và Phật là một; nói cách khác, lấy Phật huệ, Phật đức tự trang nghiêm thân tâm ta, nên biến sanh thân thành Pháp thân, khiến cho người nhìn thấy ta, nghe ta nói liền được thanh tịnh và phát tâm đi theo lộ trình Phật dạy. Được như vậy là đã chuyển hóa sanh thân thành Pháp thân.
Tại sao không gọi sanh thân là Pháp thân? Vì thân tứ đại ngũ uẩn hình thành bằng nghiệp thức đời trước hội tụ lại, nên không thể gọi là Pháp thân, mà gọi là nghiệp báo thân. Chính vì nghiệp bên trong của mỗi người không giống nhau, nên mọi người mới hiện thân tướng khác nhau. Nhưng chúng ta tu hành để chuyển nghiệp, bằng cách đọc kinh Phật, suy nghĩ trong tâm. Nhờ đem lời dạy của Phật vào tâm chúng ta lâu ngày, nên chuyển hóa được tâm dơ bẩn xấu xa của chúng ta thành tâm Phật thanh tịnh, thánh thiện.
Khi tu hạnh Thanh văn là tu Tứ Thánh đế, Phật dạy chúng ta quán tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc. Nhưng chuyển sang tu Pháp Hoa thì quá trình tu của chúng ta phải đổi ngũ uẩn hữu lậu thành ngũ uẩn vô lậu. Đổi bằng cách nào? Chúng ta cũng có sanh thân như mọi người, nhưng phải đổi nó thành Pháp thân bằng cách lấy đức của Phật, huệ của Phật để trang nghiêm thân tâm chúng ta.
Vì vậy, các anh em đừng nghĩ đến việc chăm lo cho xác thân hữu hình hữu hoạinày. Thật vậy, ta để tâm đến ăn, mặc, ở, nhưng nó không bao giờ theo ý ta. Tạm thời quên đòi hỏi của thân vật chất bằng cách lấy Phật pháp thay vô, làm việc Phật không biết mệt mỏi thì lâu ngày, sanh thân chuyển hóa thành Pháp thân. Lúc đó, người nghĩ ta là Phật vì tâm chúng ta thể hiện được tâm Phật. Tôi tâm đắc ý này, dịch phẩm 28 kinh Pháp Hoarằng tâm họ là Thiền, thân làm giống Phật, giảng pháp chân thật, khai thị nhứt thừa, được Phật xoa đầu và trao y bát. Tâm chúng ta yên tĩnh hoàn toàn là Thiền, là định và từ yên tĩnh này nhờ tu Pháp Hoa thì mọi việc tự nhiên sáng ra dưới mắt chúng ta. Có thể nói Thiền của Pháp Hoa là định và huệ hợp thành một, vì tập trung rồi thì giáo lý sâu xa trong kinh hiện ra, chúng ta tiếp nhận được, gọi là ngộ. Tôi diễn tả là "Liễu ngộ Pháp Hoa chứng đạo Thiền”. Tu Pháp Hoa nhưng chứng Thiền là chính, thì tâm chúng ta là Thiền, tức định huệ có đủ trong tâm và nhờ huệ chỉ đạo, tất cả việc chúng ta làm trên cuộc đời giống như Phật. Được như vậy, người nhìn thấy ta mới liên tưởng đến Phật và những gì ta nói phát xuất từ huệ, nên đúng sự thật là pháp chân thật.
Giảng pháp chân thật là giảng pháp đúng ở ngay đây và bây giờ. Tôi thường nóinếu có Phật ngay bây giờ và ở tại Việt Nam thì Ngài sẽ dạy gì. Đương nhiên Phật dạy đúng là làm cho tâm người an lành, thân khỏe mạnh, có trí thông minh, làm cho kinh tế phát triển. Còn chúng ta đem kinh giảng dạy người tu, mà họ rơi vô bế tắc, trở thành buồn khổ, bệnh hoạn, không làm được gì. Họ đều là Tăng Ni trẻ nhưng không tự lo được đời sống mình, phải nhờ người khác, thì như vậy ta đã dạy họ pháp không chân thật. Pháp chân thật tất yếu phải giúp cho người hưởng được lợi ích thực tiễn trong cuộc sống của họ.
Riêng tôi dạy học sinh phải tập trung và tập trung lâu dài, thường xuyên vào việc học thì chắc chắn mau thuộc bài và nhớ dai. Muốn cơ thể khỏe mạnh phải tự rèn luyện cơ thể và ăn uống thích hợp. Phật giáo Nhật Bản phát triển tinh thần này đến mức độ cao, nên tất cả sinh hoạt xã hội của họ đều biến thành "Đạo”: Hoa đạo, trà đạo, thơ đạo, kiếm đạo, hiệp khí đạo… Các anh em đọc thơ Thiền hay thơ đạo Nhật Bản sẽ nhận thấy ý nghĩa thật súc tích và dễ cảm. Thí dụ một bài thơ Nhật nổi tiếng chỉ có vài chữ : Con ếch nhảy xuống ao. Tỏm. Nếu không hiểu Thiền thì không thể nào nhận ra ý sâu sắc ẩn chứa trong vài chữ rất đơn giản như vậy. Dưới mắt Thiền sư ngộ đạo và tâm hồn trong sáng, ông cảm nhận hình ảnh trong đời thường, nhưng thể hiện sức sống Thiền, con ếch nhảy xuống ao vang lên tiếng "tỏm”. Thấy ếch nhảy xuống ao là trở về chỗ sống của nó, Thiền sư ngộ được con đường của mình trở về tự tánh bản thể, chân tâm, với tiếng kêu "Tỏm” nhẹ nhàng, đứt gọn, chẳng khác gì sự bừng sáng, hoát nhiên ngộ đạo của Thiền sư.
Thiền của Nhật đã chi phối mọi sinh hoạt xã hội của họ và chính yếu là xây dựng con người về nghệ thuật, võ thuật, mỹ thuật… Nhờ Thiền là tập trung cao và điều chỉnh được hơi thở, nên bắn cung rất chính xác và đưa Thiền vô hội họa, điêu khắc, Thiền sư nâng sức tập trung cao độ, mới có khả năng khắc một bài kinh Bát Nhã trên một hạt gạo, hay khắc hình Bồ tát Quan Âm trên sợi tóc; phải dùng kính phóng đại, chúng ta mới thấy được. Hoặc trong lãnh vực nhu đạo hay kiếm đạo, các sư học nhanh và đạt đẳng cấp dễ hơn sinh viên thường, vì người tu thường có sức tập trung cao mà người đời khó có được.
Hay Phật giáo Trung Quốc phát triển được ở đời Đường, nổi tiếng với võ ThiếuLâm tự. Chùa đã đào tạo được người tu ăn uống đơn sơ, nhưng sức khỏe tuyệt vời và võ công cao, cứu giúp được người, giúp nước nhà dẹp loạn. Vua chúa kính nể Phật giáo là như vậy.
Nếu chúng ta cứ dạy những pháp mà người không ứng dụng được trong cuộc sống, thì đó không phải là pháp chân thật. Theo tôi, phải nương pháp chân thật, khai phương tiện môn; nghĩa là phải đạt trí tuệ và sử dụng phương tiện cứu đời. Tôi nhắc các anh em không được tách rời giáo lý căn bản, nhưng phải triển khai giáo pháp cho phù hợp với hội chúng trước mặt tại đây và ngay bây giờ. Đạo Phật muốn mạnh tất yếu phải như vậy. Bây giờ, tại đây, nên học gì, làm gì để người chấp nhận và đất nước đi lên được. Giảng pháp theo tinh thần này, chúng ta thành công, Phật pháp hưng thạnh.
Chúng ta giống Phật, giống Tổ, nhưng cách làm khác, không rập khuôn. Đem Phật giáo trở lại vinh quang thời Lý Trần là trở lại theo tinh thần Lý Trần, tức là tinh thần chỉ đạo xã hội. Về chính trị, kinh tế, văn hóa, Phật giáo đều đóng vai trò quan trọng. Không phải trở lại y như thời Lý Trần là trở lại tình trạng lạc hậu. Thời đó không có trường lớp, người ta phải học ở chùa. Chùa là nơi đào tạo người làm tướng, làm quan. Nhưng đến giai đoạn đất nước phát triển, Phật giáo chúng ta đánh mất vai trò quan trọng, vì Phật giáo không theo kịp nhịp độ phát triển của xã hội. Điển hình như ở thời đại kinh tế quyết định mọi việc, nhưng chùa chiền chúng ta chỉ trông chờ sự phát tâm của Phật tử, thì Phật giáo phải chịu thua sút.
Các anh em giảng giáo lý phải mang đến lợi ích cho người, họ mới nghe. Muốn như vậy, cần nói những gì thích hợp với xã hội hiện tại và càng nâng được kiến thức của người nghe càng tốt, đó là việc chính của Giảng sư. Bỏ kinh không được, nhưng giảng y kinh cũng không đúng. Hòa thượng Phước Huệ cảnh giác chúng ta bằng câu: Y kinh giải nghĩa Phật oan tam thế, ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết.
Bỏ Tứ Thánh đế, Thập nhị nhân duyên, Lục ba la mật thì trở thành ma thuyết,nhưng kẹt vào những pháp này cũng không phải của Phật. Điều chính yếu là phải kèm theo định tuệ của chúng ta để quán sát cuộc đời và nói gì mà người chấp nhận và có lợi cho họ. Làm như vậy thì ai cũng trân trọng Phật giáo chúng ta.
Chỉ chú trọng đến việc giảng dạy cho toàn người lớn tuổi, họ dư thì giờ và chờ chết, thì không khéo Phật giáo chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Giảng cho lớp trẻ nghe phải trang bị cho họ bước chân vào đời không thua kém người, giúp họ thành đạt trong cuộc sống một cách quang minh chính đại. Làm được như vậy, thì không cần mời, giới trẻ cũng tự động tìm đến cầu học. Còn bỏ thì giờ nghe giảng giáo lý mà không được lợi gì, làm sao họ muốn nghe. Các anh em nên suy nghĩ dạy những điều thực tế để về gia đình hay đi vào đời, họ còn sử dụng được.
Riêng tôi, rút ngắn bộ kinh Pháp Hoa còn 7 phẩm để giúp các Phật tử đi làm,không có thì giờ, có thể tụng đọc thuộc lòng được. Tôi dạy họ vào sở làm, nếu gặp việc bực mình thì trong lòng nhớ đến Phật, đến kinh để hóa giải, mọi việc sẽ thành êm thắm. Quả đúng như vậy, họ nói với tôi rằng trước khi đi làm, tụng kinh thì mọi việc đều tốt và không tụng kinh thì họ cảm thấy không an tâm. Điều này có nghĩa là tôi sử dụng giáo lý có chọn lọc để nuôi dưỡng Bồ đề tâm và niềm tin của Phật tử. Nhờ đưa kinh và Phật vào tâm, họ đối xử với người nhẹ nhàng theo tinh thần Phật đạo, người mới không gay cấn với họ và thương quý họ. Không niệm Phật, không trang bị kinh và Phật trong tâm, đụng việc, sẽ đối phó thẳng tay theo kiểu thế gian, chắc chắn kết quả sẽ tồi tệ thêm.
Ngoài ra, các anh em truyền đạo cũng là truyền nghề, thì thành công. Thí dụ những Thầy có khả năng dạy Anh văn có thể tập trung các trẻ em về chùa để dạy. Tôi cũng dạy các em tiếng Nhật. Họ sử dụng được một ngoại ngữ nào cũng tốt, có thể tìm được việc và có thu nhập ổn định trong cuộc sống, cũng có lợi cho họ.
Hoặc các Thầy dạy cho họ cắm hoa, vẽ tranh, làm thơ, viết văn. Những việc này vừa có đạo lý vừa ứng dụng được trong cuộc sống. Như vậy, đến với mình, họ cũng có được thú vui tốt để tiêu khiển, giải tỏa căng thẳng, buồn phiền, hay trở thành người chuyên môn trong ngành nghề đó cũng kiếm sống được. Chúng ta thấy các Thiền sư xưa cũng thường dạy cho người như vậy. Ngày nay, chúng ta thuyết pháp suông, e rằng lâu ngày, không còn sức thuyết phục quần chúng.
Các anh em nên nghĩ xem mình giỏi việc gì để đóng góp cho đời. Và ra làm đạo, phải tìm đất dụng võ, nếu không tìm chỗ thích hợp để làm việc, cứ ngồi không, chờ đợi việc không thể có, rồi để ngày qua tháng lại trôi mất thì uổng phí cả đời. Thực tế cho thấy đa số Tăng Ni ra trường ở thành phố Hồ Chí Minh không được giảng dạy, cứ ngồi không, cuộc đời dần dần bị mai một.
Phải chịu cực đến chỗ người cần chuyên môn của ta để phục vụ thì sẽ được quý mến, làm cho Phật pháp hưng thạnh; đó là trách nhiệm của chúng ta. Đa số Tăng Ni học xong thường chờ người mời giảng, nhưng không ai mời đâu. Vì giảng không lợi ích cho quần chúng và trụ trì thì họ không nghe, không mời.
Tóm lại, các anh em Giảng sư nên nói những điều người cần nghe, những điều làm cho tinh thần người an vui, kiến thức tăng trưởng, phù hợp với sinh hoạt xã hội hiện tại, mở ra cho người một phương hướng sống tích cực lợi ích cho bản thân họ, cho gia đình họ và cho đất nước.