cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn

I. LƯỢC VĂN KINH

Duy Ma Cật hỏi các Bồ tát: Theo các ngài, thế nào là Bồ tát nhap pháp môn Bất nhị.

Bồ tát Pháp Tự Tại trả lời: Thừa, diệt là hai. Pháp vốn không sanh cũng không diệt, được vô sanh diệt, là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Đức Thủ nói: Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở. Nếu không có ngã thì không có ngã sở. Đó là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Thiện Túc nói: Động, niệm là hai. Không động thì không niệm, không niệm thì không phân biệt, thông suốt lý ấy, là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Sư Tử Ý nói: Hữu lậu, vô lậu là hai. Nếu chứng được các pháp bình đẳng thì không có tướng hữu lậu và vô lậu. Không chấp có tướng, cũng không chấp vô tướng. Đó là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Tịnh Giải nói: Hữu vi, vô vi là hai. Nếu lìa tất cả thì tâm như hư không, dùng tuệ thanh tịnh không có chướng ngại. Đó là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Thiện Ý nói: Sanh tử, Niết bàn là hai. Nếu thấy được tánh sanh tử thì không có sanh tử, không buộc không mở, không sanh không diệt. Hiểu như thế là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Nguyệt Thượng nói: Tối, sáng là hai. Không tối, không sang, thì không có hai. Vì sao. Như vào Định, diệt thọ tưởng thì không có tối, không có sáng. Tất cả pháp tướng cũng như thế. Bình đẳng vào chỗ ấy là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Châu Đảnh Vương nói: Chánh đạo, tà đạo là hai. Ở chánh đạo thì không phân biệt thế nào là tà, thế nào là chánh. Lìa hai món phân biệt, đó là nhập Bất nhị pháp môn.

Bồ tát Nhạo Thật nói: Thực, không thực là hai. Thực thấy còn không thấy, huống là không thực thấy. Vì sao. Không phải mắt thịt mà thấy được, chỉ có mắt tuệ mới thấy được. Nhưng mắt tuệ không có thấy mà chỗ nào cũng thấy cả. Đó là nhập Bất nhị pháp môn, v.v…

Các Bồ tát nói như thế rồi, hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng thế nào là Bồ tát nhập Bất nhị pháp môn.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Như ý tôi, đối với tất cả pháp không nói, không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp. Đó là nhập Bất nhị pháp môn.

Khi đó, ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật: Chúng tôi nói rồi, đến lượt ngài cho biết thế nào là Bồ tát nhập Bất nhị pháp môn.

Duy Ma im lặng không nói. Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng: Hay thay, cho đến không có văn tự, ngữ ngôn. Đó mới thực là nhập Bất nhị pháp mon.

Khi nói phẩm này, trong chúng có năm ngàn Bồ tát nhập Bất nhị pháp môn, chứng Vô sanh pháp nhẫn.

II. GIẢI THÍCH

Tất cả pháp được đề cập ở phần trước phẩm 8 là phương tiện để phá vọng thức hay chẻ sự hiểu biết phân biệt sai lầm của chúng ta, mà tìm cái chân thật sâu kín bên trong; chẻ cho đến tận cùng mới thấy Thiên nữ xuất hiện ở cuối phẩm Phật đạo. Từ đây đưa đến kết luận phá vỡ ngũ uẩn thân mới bắt gặp chơn tâm; hay Phật dạy áng mây phiền não tan, mặt trăng giác ngộ hiện ra. Đó là quá trình tu xóa sạch vọng thức để chơn tâm hiển hiện, quy tất cả pháp tu Nhị nguyên có trước về thế giới Nhất nguyên. Ở đây gọi là Bất nhị pháp môn.

Từ trước phẩm 8 thuộc thế giới Nhị nguyên, hay tương đối pháp. Theo đó, chúng ta sinh hoạt, tồn tại trong cái tương đối, chấp cái này, ghét cái kia. Thí dụ như người lớn ghét trẻ con. Theo kinh Pháp Hoa, muốn an lành đừng thân với Sa di nhỏ tuổi, đừng có chung Thầy với nó. Và ngược lại trẻ con ngán ông già khó chịu. Đó là tương đối pháp.

Đến phẩm này, trở thành Bất nhị; theo đó, đứng lập trường trẻ nhìn người già, thì nhận biết đó là tương lai của mình. Ở vị trí người già thấy trẻ, biết nó là quá khứ của mình. Hai phần trẻ và già đều là một dưới mắt chúng ta. Cho đến các loài hữu tình tuy đa nguyên đa dạng, nhưng nương Phật huệ thấy tất cả đều tiến lần về Vô thượng Đẳng giác; còn chúng ta thấy tất cả đều chui xuống nấm mồ. Về Vô thượng Đẳng giác nghĩa là về cõi sống vĩnh viễn ở Niết bàn, hoặc về cõi chết, là tùy chúng ta chọn.

Phẩm này muốn kiểm chứng toàn bộ Bồ tát tiến về Vô thượng Đẳng giác bằng cách nào, hay tu cách nào.

Ở đây chỉ đề cập đến người tu có kết quả, tiêu biểu bằng bốn mươi hai Bồ tát. Tôi cũng chưa hiểu con số bốn mươi hai này mang ý nghĩa gì, nhưng có cảm nghĩ đó là bốn mươi hai kiểu mẫu tu hành đưa hành giả đến thế giới bất tử.

Phẩm này mở đầu với bốn mươi hai vị Bồ tát trình bày trường hợp vào Phật đạo là vào cửa Bất nhị của các ngài. Mỗi vị vào cửa đạo khác nhau và bốn mươi hai vị phát biểu về sự tu chứng đều bị Duy Ma xem như chưa đạt đến lý Bất nhị hay quả vị Phật.

Đối trước sự lầm lỗi của các Bồ tát thượng thủ này, chúng ta tự nghĩ thân phận của mình như thế nào mà bước vào cửa Bất nhị được.

Cảnh giới Bất nhị hay cảnh giới chân thật của Như Lai hoàn toàn nằm ngoài ngôn ngữ phàm phu, như chúng ta sẽ thấy ngài Văn Thù trình bày ở phần sau. Tuy nhiên, muốn truyền thông tư tưởng giữa con người phàm phu của chúng ta với nhau, không còn cách nào khác hơn là sử dụng ngôn từ. Hơn nữa, chính tôi cũng chưa đạt tới trạng thái yên lặng tịch tĩnh mà có tác dụng làm mọi người giải thoát như ngài Duy Ma. Vì thế, tôi phải dùng ngôn ngữ và ngôn ngữ của tôi chắc chắn tầm thường hơn sự biểu lộ của bốn mươi hai Bồ tát. Các ngài là thượng nhân đã thể nghiệm trình độ tu chứng ở mức độ cao, vượt ngoài sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta. Vì vậy, phần diễn đạt vấn đề nhập cảnh giới Bất nhị, một vấn đề trọng yếu của kinh Duy Ma, chúng tôi chỉ nhằm gợi ý để mỗi người tùy phước đức nhân duyên mà tự thâm nhập vào cảnh giới này.

Sau khi dẫn dắt đại chúng phương cách của Bồ tát quán chúng sanh như thế nào và hành Phật đạo ra sao, giúp cho đại chúng thấy được tu hành theo Phật đạo, Duy Ma hỏi lại các Bồ tát làm sao nhập Bất nhị pháp môn, nghĩa là tu thế nào để thành Phật. Mỗi Bồ tát diễn tả một cách vào đạo, nhưng tựu trung cách tu của bốn mươi hai vị Bồ tát này đều tìm Bất nhị trong Nhị nguyên hay tìm tuyệt đối thể trong pháp tương đối; nghĩa là mỗi vị đều có đối tượng tu hành.

Chúng ta thực dạ tu hành cũng phải dựng lên thế giới Nhị nguyên đe tu. Pháp môn tu có rất nhiều, nhưng chúng ta chỉ chọn một pháp thích hợp và khi giải thoát đều đồng nhau.

Bốn mươi hai Bồ tát đều tu pháp tương đối, ở trong tương đối quán sát sự chuyển biến của nó, để tiến đến thế giới tuyệt đối Nhất nguyên. Đa số đệ tử Phật chọn cách tu này. Thật vậy, thông thường chúng ta đến với đạo thấy hai thái cực. Một bên là thế giới an lành của Phật và một bên là thế giới đau khổ của chúng sanh.

Vì chúng ta ở địa ngục, nên ước mơ về thiên đường, đang khổ mới mong ước được an lành, đang ở thế giới nhiễm ô mới muốn về thế giới thanh tịnh. Điều này tất yếu như vậy, không có cách nào khác. Từ thế giới chúng sanh đau khổ nhiễm ô nhìn về Phật, thấy thanh tịnh an vui. Chúng ta hướng tâm về đó, từng bước quên mất khổ đau, cảm thấy an lành.

Tôi đã chứng nghiệm pháp này sâu sắc. Có những lúc cuộc sống quá khó khăn thiếu thốn, nhưng tâm tôi hướng một cách mãnh liệt về thế giới Phật an lành mà quên mất thực tế bức ngặt này. Đó là thế giới của tâm hay thế giới tinh thần hoàn toàn khác với thế giới vật chất. Tuy vật chất thiếu thốn, nhưng thế giới tâm phong phú. Thế giới tâm an lành nằm trong thế giới vật chất đau khổ. Ngược lại, có người vật chất quá dư thừa mà vẫn thấy thiếu thốn, vẫn bị đau khổ dằn vặt. Riêng Duy Ma có thân vật chất già bệnh, nhưng tinh thần của ngài rất khỏe, hoàn toàn sáng suốt.

Trên bước đường tu, chúng ta cần lưu ý nếu chỉ lo phần vật chất, không có phần tâm chứng, coi như công phu tu hành bỏ đi. Ngược lại, vật chất hao hụt, thân bệnh hoạn, mà tinh thần thanh tịnh đầy đủ, chắc chắn khi từ bỏ thân này, ta sẽ bước về thế giới Phật.

Từ thế giới Ta bà nhìn thấy được bằng mắt, Phật chỉ cho chúng ta thế giới Phật A Di Đà ở phương Tây và thế giới Phật Vô Động ở phương Đông. Hành giả tu pháp môn Tịnh độ, thân ở thế giới nhiễm ô, tâm hướng về Tịnh độ như ngài Vĩnh Gia có dạy: "Tam giới du hỏa trạch, bát đức bản thanh lương. Dục ly kham nhẫn độ, thê tâm an dưỡng hương”. Thực tế chúng ta đang sống trong thế giới Ta bà đau khổ mà kinh Pháp Hoa diễn tả thân tâm chúng ta đang bị thiêu đốt trong Nhà lửa tam giới. Tuy nhiên, trong thế giới đau khổ này, chúng ta còn có cách tu hướng tâm về thế giới không đau khổ, nghĩa là thân ở Ta bà, nhưng tâm ở Tịnh độ. Sống trong khổ nghĩ đến vui, sống trong hẩm hiu hình dung lầu các, là cách tu để quên khổ của thế gian. Chúng ta dại khờ hướng về trần gian mà cầu giải thoát, chẳng bao giờ có. Nhưng nay đặt tâm vào thế giới an tịnh, chúng ta liền được an tịnh.

Lúc trẻ tôi thường hình dung cảnh giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà để sống. Dù chỉ tưởng tượng cũng cảm thấy hạnh phúc thanh thản. Ở đó có ao thất bảo, nước bát công đức, nghe chim nói tiếng Phật, nghe gió reo pháp âm, v.v… Tôi hình dung mình vào sống trong nước bát công đức nhẹ như hư không. Nằm bằng tâm nên muốn nổi thì nổi, muốn chìm tự chìm, muốn xa tự nhảy vọt. Đây là thế giới tâm đem gắn vào Cực lạc được những cảm nhận đó. Trong bể nước bát công đức có hoa sen nổi lên, sáng như gương. Trong sen búp có Bồ tát nhỏ, Bồ tát lớn ở trong hoa sen nở và Bồ tát đứng trên gương sen; toàn là bậc thượng thiện nhân không làm mất lòng ta. Tôi cảm thấy an lành thực sự, mới hiểu được nghĩa "Thê tâm an dưỡng hương”. Nghĩa là sống trong cuộc đời mệt mỏi, chúng ta tìm được một phút giây an lành ở Tây phương Cực lạc.

Từ khởi đầu tu, chúng ta phân rõ thế giới Nhị nguyên là hai phần tốt và xấu, Phật và chúng sanh. Như vậy, chúng ta có thân phàm, thân Thánh, tâm phàm, tâm Thánh. Chúng ta đứng ở thế giới này hướng về thế giới thánh thiện. Vì thế, tuy có thân phàm, nhưng tâm chúng ta đã nằm trong thế giới an lành của chư Phật.

Gá tâm nơi thế giới Phật lâu ngày, hành giả trở thành dễ thương, vì quen tiếp xúc với thượng thiện nhân nên thân khổ mà tâm an lành. Phàm tâm đã rời bỏ phàm xác chuyển thành tâm Thánh, trở thành Bồ tát nhân gian, hay mẫu người thân phàm tâm Thánh.

Từ tâm Thánh an lành, chúng ta bắt tâm trở về thân đau khổ này. Lúc ấy, thân đau khổ đã được tâm cải tạo một phần. Vì vậy, chúng ta xả Thiền thì thân hiện hảo tướng, mắt sáng hơn, mặt vui hơn. Đó là cách tu có kết quả, thân tâm đều thăng hoa. Như vậy, trải qua quá trình tu, tâm phàm đã trở thành tâm Thánh. Và tâm Thánh hồi nhập lại thế giới Ta bà nằm trong thân phàm, tạo thành thế giới phàm Thánh là một, tức thế giới Bất nhị.

Trên thực tế, chúng ta thấy rõ Đức Phật Thích Ca có một quá trình tu như vậy. Ngài cũng khởi đầu bằng thân người như chúng ta, nhưng không thích những tạm bợ này. Ngài hướng tâm tìm đạo. Trong bốn mươi chín ngày tham Thiền, Ngài bắt đầu tham quan thế giới Phật, cho xác phàm tạm nghỉ, để tâm Ngài vân du mười phương. Ngài thấy được Cực lạc ở phương Tây, thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương Đông và tự chọn cho Ngài một Tịnh độ.

Đêm mùng 7 rạng mùng 8 tháng chạp, tâm Thánh hồi nhập trở lại thân phàm. Tất cả sự tham lam ích kỷ xấu xa đều hiện đủ trong tâm ông Thánh và đánh nhau một trận cuối cùng giữa hai tâm Thánh phàm, để lột bỏ hoàn toàn tâm phàm.

Chưa đắc đạo, hành giả với ma là đồng minh. Nay từ thế giới Phật trở lại, hành giả là Thánh, đương nhiên nó là ma, nên trở thành thù. Nói cho dễ hiểu, khi chúng ta xấu chơi với người xấu, cùng làm việc xấu, ta và nó là bạn. Nhưng khi chúng ta không làm ác, không chơi chung với xấu, tất yếu có vấn đề đặt ra gọi là ma, chắc chắn nó phải ghét ta.

Đức Phật đắc đạo đầu hôm chứng được Túc mạng minh. Ngài quán sát trở lại ngũ ấm thân, thấy đủ nghiệp chướng, tức thế lực vô minh giở mọi thủ đoạn. Nhưng thực sự kẻ thù đó chính là ngũ ấm của chúng ta, không phải ai xa lạ. Thật vậy, trước kia vì vô minh lầm tương sáu căn, sáu thức là "Ta” thật. Nó ở với ta lâu ngày, chiếm lĩnh toàn bộ thân ta làm cứ địa. Chúng ta phải đấu tranh với nó, một cuộc đấu tranh nội bộ giữa tham ái và tri thức.

Vì thế, chứng Túc mạng, Ngài tìm cách hóa giải thân ngũ ấm, bắt đầu thu phục ngũ ấm của chính mình, không làm việc gì khác. Từ thế giới Thiền định, bằng Phật huệ, Ngài chiếm lại sáu cửa thành quan trọng của ngũ uẩn là sáu giác quan hay sáu căn. Và Ngài bắt đầu sử dụng sáu căn này quan sát trở lại, thấy được Túc mạng là nghiệp theo chúng ta nhiều đời. Nó mang đủ các loại hình, đủ loại tánh, từ thân người, thân trời, cho đến súc sanh, ngạ quỷ.

Sau khi đã hoàn toàn làm chủ sáu căn, đến nửa đêm, Ngài chứng Thiên nhãn minh thấy hoàn toàn khác. Đó là cách quán sát theo Phật, không phải theo chúng sanh. Kinh Pháp Hoa diễn tả là "Bất như tam giới kiến ư tam giới”.

Thiên nhãn minh, hay cái thấy của người giác ngộ, sự vật thế nào thấy đúng như vậy, thấy rõ không sai lầm quá trình của nó từ khởi thủy đến hiện tại cho đến muôn kiếp về sau. Bấy giờ Đức Phật vẽ ra lộ trình truyền bá giáo pháp của Ngài và chương trình tu học cho mọi người. Đó là giai đoạn thứ ba, từ nửa đêm đến sao mai mọc, Ngài chứng Lậu tận minh.

Sáng mùng 8, Đức Phật hoàn toàn làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và thiên nhiên. Không làm chủ một ngày một kiếp, nhưng làm chủ muôn đời. Còn chúng ta nay là chủ, mai bị truất quyền. Đạo Phật tồn tại hàng bao thế kỷ, nghĩa là Đức Phật làm chủ cả mấy ngàn năm, một thọ mạng dài nhất trong các vị Thánh.

Chỉ trong vòng bốn mươi chín ngày ngắn ngủi tư duy dưới cội Bồ đề, Đức Phật thấy rõ quá trình diễn tiến của từng người, từng sự kiện, từng chặngđường Bồ tát phải làm gì, ở đâu. Vì vậy, người nào bước đúng lộ trình do Ngài vạch ra, đều tiến đến Vô thượng Đẳng giác.

Bốn mươi hai Bồ tát diễn tả nhiều cách khác nhau, nhưng chung quy từ Nhị nguyên phát triển khả năng, thăng hoa để nhập Bất nhị pháp môn, hay Nhất nguyên.

Bốn mươi hai Bồ tát trình bày đều đúng, vì các ngài đã đắc đạo. Tuy nhiên, Văn Thù sợ chúng ta chấp pháp, không được giải thoát. Ngài mới nhắc nhở chúng ta đừng chấp giữ cái đúng của mình và đem dạy mọi người để họ thấy pháp của người khác sai. Tất cả những gì Phật dạy là phương tiện. Tuệ giác của Phật Thích Ca và của các nhà truyền giáo đều đúng, nhưng sinh hoạt tất yếu phải khác.

Hành giả theo giáo nghĩa Đại thừa là theo Văn Thù hay theo cách sống của Phật, không lập y lời Phật. Dưới kiến giải của Duy Ma, sống theo Phật nghĩa là người đời sống thế nào, hành giả sống y hệt như họ; nếu khác, sẽ trở thành đối lập. Điều này gợi cho chúng ta ý thức đừng tạo mẫu hình cố định ràng buộc làm chúng ta khổ. Triển khai tư tưởng này, Phật giáo Đại thừa không theo hình thức, nhưng chủ yếu phát huy đạo đức và trí tuệ để thuyết phục người. Đức Phật cũng e ngại chúng ta mắc bệnh chấp pháp, trở thành sai lầm. Thể hiện ý này, kinh Văn Thù xác định rằng trong bốn mươi chín năm, Phật chưa nói lời nào.

Về vấn đề này, tôi nhận thấy một số chùa không cho Tăng trẻ đi học, sợ học giỏi không tu nữa. Đây là quan niệm nguy hiểm. Như vậy hóa ra đạo Phật làm cho người trở thành ngu dốt hay sao. Theo tôi, phải khuyến khích người phát triển, dùng trí khôn xử trí theo Phật. Trí khôn là tùy cơ ứng biến. Kinh Pháp Hoa diễn tả rằng Phật dùng vô số phương tiện thuyết pháp lợi ích cho chúng sanh, không nên ở trong khuôn cứng nhắc sẽ thủ tiêu trí khôn.

Đức Phật chứng Lậu tận minh phác họa con đường sáng cho chúng ta phát triển. Theo tinh thần này, giáo nghĩa Đại thừa vô cùng tận, trí Bát Nhã được diễn dịch qua biết bao nhiêu sách vở.

Trở lại vấn đề Văn Thù luận bàn về pháp tu của bốn mươi hai Bồ tát. Theo ngài, sự tu chứng của bốn mươi hai Bồ tát còn thuộc pháp tương đối, nằm trong vòng đối đãi thiện ác, phải trái, nhơ sạch, động tịnh, tội phước, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, sắc không, minh vô minh, ngã vô ngã, sanh tử Niết bàn, v.v… Và hai cái đối sau cùng là thế gian và xuất thế gian. Trong xuất thế gian cũng có Tam thừa và Phật thừa đối nhau.

Ở giai đoạn đầu, thực hành pháp tương đối, ta phân ra hai phần rõ rệt là ta làm lành và người làm ác, ta là Thánh và người là phàm, ta giỏi và người dở.

Khi có quan niệm ta tốt người xấu, ta sẽ sanh ý niệm ghét người và khinh người. Nghĩa là từ đây đã sanh ra trong ta hai tâm xấu là ghét người và khinh người. Dù người có xấu, có dở thật chăng nữa, họ vẫn trở thành đối tượng thù nghịch của ta. Khi cái dở và xấu của người phát huy trong tâm ta càng cao, thì mặt đối tượng thù nghịch càng tăng trưởng. Như vậy, cái tốt của ta là cái tốt tương đối, được Văn Thù ví như hoa sen mọc trong bùn, vì có người xấu ta mới ngát hương.

Trên bước đường tu phàm Thánh phân minh hay thế giới Nhị nguyên tồn tại, đối với chúng ta là điều tất yếu. Thật vậy, trước mắt người trí luôn luôn hiện hữu phải trái tốt xấu. Và chắc chắn ta sẽ chọn điều tốt, điều phải. Từ đó cứ tiến dần đến một lúc chúng ta bị lệch đường. Bấy giờ, làm thiện càng nhiều, ta thấy cuộc đời càng ác gấp bội. Đứng bên này cái tốt nhìn qua thái cực xấu kia, ta bực không nhịn được. Hoặc ta thẳng tay với người ác hoặc ta khiếp sợ nó, sanh tâm chán nản đến độ buông xuôi, để nó hại ta. Vì vậy, mặt đối nghịch càng lớn khi ta càng đi xa trên con đường giải thoát theo mô hình phân biệt phải trái này.

Đức Phật thuyết kinh Duy Ma để phá vỡ kiến chấp thiện ấy và nhắc nhở chúng ta đừng cho lòng ác tăng trưởng theo việc làm thiện. Trong thế giới tâm thức, ta thấy rõ điều này. Khi chưa tu, thiên hạ giết người, ta cũng giết người. Thiên hạ giả dối, ta cũng giả dối. Nhưng ta điều chỉnh mình trở thành tốt. Lúc ấy, cái xấu của người sẽ trở thành đối nghịch với ta. Ta thánh thiện để tạo thành sự tương phản ác lớn hơn, là tu sai pháp.

Từ đó, Đức Phật mới đặt vấn đề hành phi đạo tức thông đạt Phật đạo, để chúng ta hóa giải thánh thiện của chúng ta; nghĩa là cởi bỏ phần thánh thiện trong tâm, tạo thế giữa ta và ác không căng thẳng, không đập mạnh vào tâm ta nữa. Không vì sự thánh thiện của ta mà thấy người ác. Không thấy họ ác, thì cái thiện của ta mới trở thành thiện độc nhất, hay độc thiện.

Khởi đầu tu có thiện ác đối nhau và tiến đến phá bỏ cái ác đối lập với thiện. Làm cho thiện không có đối nghịch ác, mới thông đạt Phật đạo. Từ đó, đi suốt cuộc đời với cái nhìn sáng suốt và giải quyết việc không theo quyết định cái thiện chủ quan của mình.

Từ góc độ nhìn của Bồ tát thông đạt Phật đạo thấy khác, không thông đạt làm việc trong thế đối lập. Ngược lại, thông đạt làm việc trong thế hòa giải, càng làm việc thiện càng dìu dắt theo nhiều người cùng làm thiện với mình. Không phải càng làm thiện càng tạo thế đối lập, chống đối. Điển hình như tiền thân Phật hành Bồ tát đạo, Ngai giết tên cướp để cứu năm trăm lái buon. Ngài đã hóa độ được năm trăm người này và cả tên cướp trở thành Bồ tát bất thoái chuyển. Đây là mẫu tiêu biểu cao nhất mà Đức Phật đã thể hiện tinh thần hành phi đạo tức thông đạt Phật đạo.

Không đạt đến sự chứng ngộ này, chúng ta vẫn là chúng sanh đứng ở lập trường sanh tử giáo hóa chúng sanh sanh tử, thì chỉ là việc vô ích.

Bồ tát quán sát chúng sanh dưới dạng thể tánh đồng với Phật mà kinh Hoa Nghiêm đưa đến kiến giải cao nhất, theo đó không có gì không phải là Phật mới thực là Phật. Vì nếu không có chúng sanh, Phật cũng không tồn tại, chúng sanh bị triệt tiêu thì Phật cũng mất.

Dưới góc độ này, Duy Ma xác định việc làm phi đạo của Bồ tát mới thông đạt Phật đạo, nhằm mục đích phá bỏ sự hạn hẹp cục bộ của những người chấp pháp. Hành phi đạo nghĩa là không theo mẫu cố định có sẵn. Thí dụ như chư Tăng ơ thành Tỳ Da Ly xây chùa, giữ tiền bị Da Xá cho là phi đạo. Nhưng sự phi đạo này, dưới mắt Phật giáo Đại Thừa, là Phật đạo; vì nó đóng góp cho nhân sinh được lợi lạc, giúp cho đạo Phật tồn tại, phát triển.

Phi đạo được Bồ tát đem ứng dụng tùy chỗ, tùy thời, có lợi ích khác nhau, không phải theo một khuôn mẫu cố định, mà có nhiều mô hình khác nhau. Nghĩa là trở lại thuyết tương đối thì cái này có cái kia có, cái này sanh cái kia sanh. Bồ tát kết hợp hai phần thuận và nghịch đối nhau để hành đạo.

Bồ tát hành đạo trên lập trường Bất nhị pháp môn, tùy theo yêu cầu mà giải quyết. Gặp hoàn cảnh thuận tốt, ngài vận dụng pháp thuậnđể làm. Gặp nghịch cảnh, ngài nương theo phápđối nghịch tu tập giáo hóa. Bồ tát sống trên cuộc đời không bị đời làm ô nhiễm. Ngài cỡi thuyền Bát Nhã, lướt trên sóng phiền não, dùng trí tuệ soi rọi vào đời mà lướt đi nhẹ nhàng, ngược xuôi trên dòng thuận nghịch của sanh tử.

Bốn mươi hai Bồ tát tiêu biểu đều khởi tu từ pháp tương đối, làm thiện tránh ác. Nhưng sang giai đoạn hai, không tránh ác, mà hóa giải được ác, nên có thêm một Bồ tát đồng hành làm pháp lữ. Cũng vậy, trên bước đường tu, chúng ta bắt đầu thực hiện từng pháp tương đối, dẫn đến thể hiện Thập Thiện đạo, ba mươibảy phẩm trợ đạo, sáu pháp Ba la mật. Tuy làm những việc thuần thiện, nhưng hoàn toàn xả bỏ tâm chấp thiện chấp ác. Không có gì tồn tại trong lòng để tâm hồn hoàn toàn giải thoát, bước vào cảnh giới Bất nhị, mới thực sự tác động cho người thánh thiện.

Tóm lại, trên dòng sanh diệt của cuộc đời, luôn luôn có hai pháp đối nghịch. Bồ tát thông đạt Phật đạo rồi, nhập Bất nhị pháp môn, không còn vướng mắc trong thiện ác. Bồ tát đã thoát vòng tương đối để đi vào tuyệt đối, trở về bản thể sự vật mà Bát Nhã gọi là "Bát Bất” thuộc chặng đường sau cùng của lộ trình Bồ tát. Đó cũng là ý chính của phẩm này.

Văn Thù kết thúc bốn mươi hai ý kiến của các Bồ tát rằng Bất nhị pháp môn là pháp tuyệt đối của Bồ tát. Không thể lý luận, không tranh cãi được và cũng không chỉ dạy được pháp này. Người nào tự chứng nghiệm sẽ biết hương vị giải thoát như các Bồ tát trình bày.

Văn Thù không phủ nhận thuyết của bốn mươi hai Bồ tát là sai. Ngài khuyên chúng ta làm tất cả mọi việc như bốn mươi hai Bồ tát đã làm, nhưng không được để vướng mắc trong trường hợp nào. Vì đạo Bồ tát chẳng những xa rời ngôn ngữ, mà còn không có phạm trù.

Bốn mươi hai sở đắc của Bồ tát trình bày là bốn mươi hai dị kiến. Mỗi vị chỉ hiểu một khía cạnh riêng; trong khi chân lý tròn đầy tự sáng, khỏi cần nhờ ai bênh vực, bào chữa. Vì vậy, Duy Ma lặng thinh không nói, mà Duy Ma vẫn tiêu biểu cho sự sống trên nhân gian, làm được tất cả và được mọi người kính trọng.

Bốn mươi hai kiến giải của Bồ tát là bốn mươi hai phương cách, bốn mươi hai con đường dẫn đến thế giới Bất nhị lặng thinh. Nếu bỏ bốn mươi hai cách này, hành giả cũng không thể bước vào thế giới Bất nhị.

Cánh cửa Bất nhị mở ra cho hành giả thấy rõ Đạo không phải là Chân đế của hàng Thanh văn, cũng không phải là Tục đế của hàng phàm phu thế tục. Những bộ kinh trước kinh Duy Ma ca ngợi đạo xuất thế của Thanh văn tu không dính líu cuộc đời mới thực sự là chân đạo. Nhưng kinh Duy Ma phủ nhận chân đạo của Thanh văn và lập luận đảo ngược lại, lấy pháp tu xả thân vào đời làm lợi ích cho chúng sanh.

Tuy nhiên đến phẩm này, Duy Ma đưa ra pháp Bất nhị để giải thích con đường Trung đạo nhằm giúp cho hành giả khỏi hiểu lầm pháp tu của Thanh văn. Đừng nghĩ rằng pháp Thanh văn không ích lợi cho đời, để rồi chúng ta chống lại Thánh đạo và thế tục hóa đạo Phật.

Bất nhị pháp môn của Duy Ma đưa ra là mô hình Phật đạo để phá bỏ thế giới Nhị nguyên đối đãi và đưa đến con đường Nhị đế dung thong. Thật vậy, hành giả hành đạo trên thế gian làm lợi lạc cho chúng sanh, vẫn không rời bản vị giải thoát của mình. Bấy giờ, Thánh phàm, hữu tình vô tình, hữu vi vô vi…, tất cả sự vật trên cuộc đời, không có gì mà Bồ tát không thông đạt, không tác dụng lợi ích.

Bồ tát ảnh hưởng tốt cho tất cả loài chúng sanh, chứng tỏ Bồ tát có làm, nhưng không tồn tại việc làm trong tâm Bồ tát và việc làm này cũng không thể giải thích cho người biết. Tác dụng của Bồ tát vào sáu đường chúng sanh làm cho họ giải thoát. Tuy nhiên, những chúng sanh này cũng không kẹt trong tâm Bồ tát, nên gọi là rời hý luận. Hý luận để hiểu còn nằm trong tương đối pháp, không phải là Bồ tát độc thiện.

Bồ tát làm được tất cả, nhưng không ai có thể hiểu được sự thể nhập cửa Bất nhị của Bồ tát. Cảnh giới Bất nhị thuộc tuyệt đối thể, Thiền gọi là ly văn tự, ly ngôn thuyết, ly tâm duyên. Kinh Pháp Hoa cũng thể hiện ý này rằng "Các pháp tướng thường tự vắng lặng, Bồ tát hành đạo sẽ thành Phật”.

Văn Thù hỏi tiếp Duy Ma vào Bất nhị bằng cách nào. Duy Ma hoàn toàn yên lặng, từ thái độ cho đến trạng thái nội tâm và được Văn Thù tán thán tuyệt diệu. Các Bồ tát giải thích đủ cách, không được Văn Thù chấp nhận.

Tuy Duy Ma lặng thinh, nhưng tác động vào tâm thánh chúng không ít, khiến họ hiểu được việc làm của Duy Ma tại thành Tỳ Da Ly. Chúng ta lặng thinh, thân không động mà dòng tư duy vẫn diễn biến không ngừng. Điển hình như trường hợp Phật Ấn chỉnh Tô Đông Pha về cái gọi là không động tâm của ông. Tô Đông Pha tự cho rằng ông không động tâm trước tám việc của thế gian như yêu thương, ghét bỏ, buồn vui, mừng giận, khen chê, v.v…, nên thốt lên câu đầy tự hào rằng:

Bát phong xuy bất động

Tuy nhiên, ngài Phật Ấn thấy được sự động loạn biến chuyển tận trong tâm của Tô Đông Pha nên cảnh giác ông bằng hai câu:

Hữu phong bất động, vô phong động

Bất động vô phong, động hữu phong

Khi có phong trần bên ngoài tác động mà ta nói rằng ta không động, ta biết ta không động là đã động rồi. Và tệ hơn nữa, không có gió bên ngoài tác động, không có người nói, mà tâm ta vẫn động. Sự khởi niệm động tâm này tràn ngập trong lòng, vì ý thức có trước, cảnh vật mới tùy đó sanh. Động từ gốc, từ trong tâm, nên cảnh mới hiện. Sự việc đến với ta là tự biết gió nghiệp ta có. Nghiệp bên trong thôi thúc làm cho cảnh hiện lên.

Sự lặng thinh của Duy Ma tiêu biểu cho sự yên lặng như chánh pháp. Ngài hoàn toàn yên lặng, không có khởi niệm mà mọi vật đều chịu sự tác động của ngài. Bồ tát đến dự hội thâm nhập vào sự lặng thinh tịch tĩnh của Duy Ma, cũng đạt được Vô sanh pháp nhẫn.

Bồ tát an trụ trong tuyệt đối thể, vẫn thể hiện đầy đủ lợi ích trên sanh diệt môn, nhưng không bị vướng mắc điều gì trong tâm. Các ngài tự tại ra vào cảnh giới Bất nhị tùy theo bản nguyện và yêu cầu của chúng sanh.