cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai

Phật Thích Ca dành một pháp hội Vô Lượng Thọ để giới thiệu về Phật Di Đà và nói rõ nhân hạnh quả đức của Ngài. Trong khi kinh Di Đà được coi là tiểu bản rút ngắn từ kinh Vô Lượng Thọ, chú trọng đến vấn đề niệm Phật vãng sanh là chính và chỉ giới thiệu phần quả đức của Phật Di Đà như thế nào và thế giới của Ngài mà thôi.

Vì chỉ căn cứ vào phần quả đức theo kinh Di Đà, nhiều người lầm tưởng rằng pháp môn Tịnh độ dạy chúng ta hướng về thế giới xa xăm, không thực tế, giống như các tôn giáo nhứt thần vinh danh Thượng đế trên trời, ký thác vận mạng con người cho Thượng đế, mà không biết vị này ra sao. Hoặc những người tiêu cực, yếm thế, thấy thế giới này bất công, khổ quá, nên muốn sinh về Cực lạc sướng hơn. Tư tưởng Tịnh độ theo cách tiêu cực này đã bị nhiều người phản đối, nhất là người theo Tịnh độ của Duy Ma hay theo Thiền.

Thiền tông căn cứ vào kinh Duy Ma để khẳng định rằng tâm tịnh thì thế giới trở thành thanh tịnh, hay y báo tùy thuộc chánh báo. Người có chánh báo không tốt, đến đâu cũng làm cho nơi đó trở thành xấu. Thí dụ giao dinh thự cho ăn mày ở, chắc chắn nơi đó không còn là tòa nhà cao sang nữa. Chúng sanh tạo tội ác đến đâu thì đau khổ đến đó. Trái lại, Bồ tát tu tạo công đức đến mức độ nào, sẽ có Tịnh độ tương xứng như vậy.

Trong kinh Duy Ma, Đức Phật dạy rằng Tịnh độ của Bồ tát là trực tâm, thâm tâm và Bồ đề tâm. Trực tâm là lòng thành thật, ngay thẳng, thâm tâm là tình thương đối với chúng sanh và Bồ đề tâm là trí sáng suốt. Thật vậy, nơi nào có người ngay thật, diệu hòa, có tình thương, nơi đó phải an lành. Nơi có người hung dữ, gian tham ở, thì địa ngục theo đó xuất hiện. Chúng ta thử sống thành thật, ngay thẳng sẽ thấy uy tín của mình theo tâm tốt ấy mà tăng lên và cuộc sống cũng được an lành theo. Tịnh độ hiện hữu một phần trong tâm sẽ thể hiện một phần kết quả tốt trong cuộc sống. Nếu tu được tâm từ và tâm bi, dùng tâm đó đối xử với người, thì người thương kính ta, là an lành hay Tịnh độ mở rộng đến đó. Tâm Bồ tát phát huy, tạo thành Tịnh độ của một người, hai người, bốn người, v.v... Trong Phật giáo thường quy định bốn người trở lên sống chung tạo thành tập thể Tăng già thanh tịnh, hòa hợp. Hành đạo, mang tình thương cho người và vì quyền lợi của người, thể hiện tinh thần vị tha vô ngã; đó là Tịnh độ thứ hai của Bồ tát và Bồ tát quyến thuộc.

Ngoài ra, Bồ đề tâm cũng là Tịnh độ của Bồ tát, vì không có trí giác là tâm sáng suốt, sẽ khó điều chỉnh được trực tâm và thâm tâm.vậy, đạo Phật chọn trí tuệ là chính để sử dụng đúng đắn hai tâm trước hay tất cả tâm khác. Chư Phật đều có Vô thượng Bồ đề là trí giác cao nhất. Có Bồ đề tâm mới có Tịnh độ.

Trí thông minh khác với trí hiểu biết theo học thức. Có học thức, vì chúng ta tiếp nhận tất cả dữ kiện, kinh nghiệm của người khác làm hiểu biết cho chúng ta. Nói cách khác, chúng ta biết nhiều việc của người khiến chúng ta sinh phiền não; cái biết như vậy được gọi là phiền não trí, càng biết càng phiền não thêm.

Trí tuệ theo Phật do tu, do trực giác, do tập trung tư tưởng mà sinh ra; không phải do học mà biết. Tu Thiền, tập trung tư tưởng, nên phát sanh huệ, nhìn sự vật chính xác; tâm tán loạn không thể có nhận thức đúng đắn. Huệ này cũng do văn, tư, tu, nhưng do ứng dụng trong Thiền quán mới có.

Trước tiên, có Túc mạng minh hay Túc mạng huệ là chúng ta tự biết mình và những người xung quanh. Hôm nay ta là giảng sư hay trụ trì, thì biết đời trước ta đã từng làm việc này, nên hiện đời thấy thích và làm tốt công việc ấy dễ dàng. Chúng ta cũng biết được túc mạng của người, biết mối quan hệ giữa ta và họ, biết đời trước đã từng giúp hay hại họ hoặc chưa quen biết với họ. Biết như vậy, chúng ta hành đạo, tìm đến người có nhân duyên oán hay thân, để tùy theo đó mà làm cho mối quan hệ tốt tăng lên, hay xóa đi mối quan hệ xấu của đời trước. Người tu biết túc mạng sẽ hành sử như thế, lần hồi người tốt với ta sẽ tốt thêm và người xấu sẽ hết xấu. Còn gặp người xấu, ta bỏ là đoạn mất duyên; gặp người tốt, ta khai thác cạn kiệt thì cũng mất trắng. Biết túc mạng thì quyến thuộc Bồ đề đông thêm.

Kế đến, chứng Thiên nhãn minh là thấy xa hiểu rộng. Hiểu rộng cả Pháp giới là hiểu tất cả ngành nghề; thấy xa là thấy việc sẽ xảy ra mười năm, hai mươi năm sau, cho đến nhiều kiếp sau. Thấy trước diễn tiến của sự việc, nên dễ dàng kham nhẫn, chịu đựng. Tôi thuyết pháp trong hai mươi năm không trở ngại, vì chỉ đến nơi nào thuyết pháp được và lúc nào giảng được. Thấy từng chỗ, từng lúc để làm đạo, đạt kết quả tốt mà không tốn công nhọc sức và được an lạc. Thực tế cho thấy những vị đắc đạo, nhưng không làm đạo, vì thấy cơ duyên chưa đến. Nhưng cơ duyên đến mà không làm, sẽ bỏ mất cơ hội ngàn năm một thuở; trái lại, cần ẩn tu mà không ẩn sẽ gặp tai họa.

Bồ đề tâm giúp người tu thấy xa hiểu rộng cả toàn cầu, mỗi quốc gia có luật pháp, phong tục riêng. Khi nào anh em tu đắc đạo, trí tuệ sinh ra sẽ hiểu việc này. Tuy nhiên, chưa đắc đạo, chúng ta có thể nghiên cứu về dân tộc, luật pháp, chế độ, v.v… của một quốc gia nào đó, cũng biết được sinh hoạt của họ.

Nói đơn giản, có trí tuệ thì có Tịnh độ; thiếu trí tuệ chỉ chuốc lấy sự bực bội, buồn phiền dẫn đến làm loạn, sẽ bị tù tội, không thể khác. Có trí tuệ, biết được cách sống thích hợp; ở thành phố sống theo thành phố, ở cao nguyên sống theo cao nguyên. Biết thì ở đâu cũng an lành. Tu đến đâu, Tịnh độ xuất hiện đến đó.

Sử dụng trí tuệ để xây dựng hai mặt. Thứ nhất là khai thác về nhân tâm, chỉ cho xã hội và con người. Môn Duy Thức đã phân tích cho chúng ta thấy có bao nhiêu phiền não và thiện tâm sở; đó là tâm thức của con người để chúng ta khai thác. Nếu là ác ma, hay thực tế là những nhà hoạt đầu chính trị, thường dùng thủ đoạn bằng cách kích động tánh nóng của người, khiến người gây rối loạn cho họ hưởng lợi. Trái lại, theo Phật, chúng ta khai thác nhân tâm cách khác. Thấy mọi người đều có thiện tâm sở, chúng ta khai thác mặt tốt này để họ trở thành Bồ đề quyến thuộc, để xây dựng xã hội tình người.

Và có người quý mến rồi, chúng ta khai thác mảng tự nhiên là tài nguyên thiên nhiên cũng rất quan trọng. Vì có của báu, nhưng thiếu sự hiểu biết, thì không khai thác được; ví như nằm trên đống vàng mà chết đói. Sử dụng trí tuệ vào việc khai thác tài nguyên tự nhiên, để xây dựng cho dân giàu nước mạnh. Kinh Bảo Tích cũng cho thấy rất rõ Đức Phật Di Đà đã khai thác nhân tâm và môi trường thiên nhiên vô cùng khéo léo để xây dựng thế giới Cực lạc của Ngài. Chúng tôi sẽ đề cập ý này ở phần sau.

Trở lại pháp môn Tịnh độ, lâu nay chúng ta chịu ảnh hưởng sai lầm lớn của một số người đi trước. Họ chủ trương xây dựng thế giới Cực lạc ở phương Tây và minh họa cuộc sống hiện tại của chúng ta đáng chán, đáng bỏ để đưa mọi người đến Tây phương Cực lạc. Như vậy, họ đã vô tình đào tạo những người chán đời, từ bỏ xã hội. Tịnh độ tông Nhật Bản không chấp nhận chủ trương này, nhưng theo mô hình Tịnh độ Ngũ kinh. Trong khi Tịnh đo của Trung Hoa lấy Tịnh độ Tam kinh là chính, gồm kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà; thậm chí thu hẹp, họ chỉ còn sử dụng tiểu bản Di Đà. Và thu hẹp nữa, đưa ra tư tưởng cho rằng chúng ta sinh trong thời mạt pháp, phải gấp rút niệm Phật vãng sanh; vì sẽ không còn gì tồn tại ở thế giới này. Đáng sợ nhất là tuổi thọ của con người sẽ bị giảm từ 80 xuống 50 tuổi, cho đến về sau, người ta chỉ còn sống được 10 tuổi thôi.

Tư tưởng Tịnh độ như vậy rất nguy hiểm và vô lý. Cổ xúy cho mọi người từ bỏ thế gian mà ra đi, trong khi Phật pháp chỉ tồn tại với con người trong thế gian, khác gì chúng ta làm cho Phật pháp tự hoại diệt. Lập luận rằng con người chỉ sống đến 10 tuổi cũng không đúng. Đức Phật không nói như vậy. Thực tế ở thế kỷ XIX, người Nhật tính tuổi thọ trung bình của người ta là 50, sang thế kỷ XX thì tuổi thọ là 60 và đến thế kỷ XXI này, người ta định 70 tuổi là tuổi thọ. Và hiện nay ở Nhật, số người sống trên 100 tuổi không phải ít. Điều này dễ hiểu, khi người ta văn minh hơn thì vệ sinh tốt hơn, kỹ thuật y khoa tân tiến hơn, thuốc men đầy đủ hơn, nên kéo dài được tuổi thọ là đương nhiên, nếu biết cách sống lành mạnh.

Các nhà sư tu đắc đạo phần lớn tăng tuổi thọ và người đời thấy vậy muốn theo học. Thật vậy, người tu ăn uống đơn sơ, nhưng ít bệnh hoạn và làm việc dai sức, thông minh hơn, cộng với việc giảmthiểu những tánh không tốt, nên sống lâu hơn, là điều tất yếu. Vì tất cả những sự buồn bực, lo sợ làm người ta sinh ra nhiều bệnh, chết sớm. Nhiều người hỏi tôi rằng Hòa thượng tu pháp môn gì mà nhớ dai và sức khỏe tốt. Họ học điều này với tôi, không phải học vãng sanh. Tăng Ni cần suy nghĩ ý này để ứng dụng trong cuộc sống có kết quả tốt, dạy được người khác.

Khác với Tịnh độ Tam kinh, Tịnh độ tông của Nhật Bản chủ trương xây dựng Tịnh độ theo Ngũ kinh. Tịnh độ Ngũ kinh do ngài Ấn Quang đại sư đề xướng. Ngoài ba kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và Di Đà, Ngài còn đưa thêm kinh Thủ Lăng Nghiêm và Hoa Nghiêm.

Kinh Hoa Nghiêm chủ yếu chỉ có một câu trong Phổ Hiền hạnh nguyện kệ nói rằng: Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung, được gặp Phật Di Đà, được vãng sanh Cực lạc, đầy đủ hạnh Phổ Hiền và sẽ biến hóa vô số vạn ức thân đi khắp mười phương giáo hóa chúng sanh. Và người này thọ mạng được lâu dài là thọ mạng ở ngay thế giới này, không phải thọ mạng ở Tây phương Cực lạc. Đó là tinh thần Tịnh độ đặc biệt theo kinh Hoa Nghiêm. Chỉ một câu của kinh Hoa Nghiêm nói về Tịnh độ, người ta triển khai ra toàn bộ tinh thần Tịnh độ theo Hoa Nghiêm là xây dựng xã hội với những con người thông minh, sống lâu và khỏe mạnh. Tăng Ni nên biết tư tưởng tích cực của Tịnh độ như vậy đã có trong kinh điển.

Thật vậy, triển khai pháp hội Vô Lượng Thọ Như Lai trong kinh Bảo Tích, Phật giới thiệu rõ pháp môn Tịnh độ và nhân hạnh của Phật Di Đà để chúng ta lập hạnh. Thực tế Phật dạy ý này rất thích hợp với xã hội chúng ta đang sống; bóp méo ý kinh là điều không nên. Hiểu sai ý Phật và dạy người tiêu cực là phạm tội phá pháp, mà Nhật Liên Thánh nhân mạnh dạn phê phán rằng sẽ bị đọa Vô gián địa ngục.

Ở Nhật Bản, ngoài Tịnh độ tông, còn có Tịnh độ Chân tông. Tu sĩ của Tịnh độ Chân tông được gọi là tân Tăng, họ lãnh đạo tông phái nhưng không cạo tóc, không ăn chay trường và lập gia đình. Mới nghe qua, chúng ta nghĩ họ không phải là tu sĩ. Tuy nhiên, trên thực tế sinh hoạt của tông phái này đã phát triển từ thế kỷ XII, kéo dài cho đến ngày nay lại phát triển mạnh hơn nữa. Tông này cho rằng không phải ai cũng có điều kiện xuất gia, tu hành thanh tịnh, được giải thoát, lên Niết bàn. Theo họ, mọi người đều mang sanh thân, nên phải theo quy luật chi phối của xã hội. Khởi xướng Tịnh độ Chân tông là Thân Loan thượng nhân. Ngài là con của một vị Tể tướng thuộc dòng họ cao quý đi tu. Với chủ trương táo bạo, trái ngược với chủ trương thời bấy giờ là nhà sư phải ăn chay và sống độc thân, nên Ngài đã bị bắt và bị đày. Ngài nói dù không chấp nhận phương cách tu hành do ngài đề xướng, nhưng đó vẫn là một thực tế tồn tại và sẽ phát triển. Quả đúng như vậy, ngày nay Tịnh độ Chân tông ở Nhật phát triển thuận lợi hơn các tông phái khác.

Người tu của tông này có niềm tin tôn giáo mãnh liệt, nhưng sống đời thường. Nhờ vậy, họ có thể làm tất cả ngành nghề và sinh hoạt được ở tất cả mọi nơi. Họ nương vào ưu thế này để truyền đạo dễ dàng. Trong khi người mang hình thức xuất gia có nhiều việc không làm được, có nhiều nơi không đến được. Tu sĩ Tịnh độ Chân tông của Phật giáo Nhật có sinh hoạt tương tự như đạo Tin Lành ở điểm họ đi vào cuộc đời, sống gần gũi với mọi người. Và khi sống bình thường, thân cận với người đời như vậy, thì vị này không có được những lợi thế của người mặc áo xuất gia, nên họ phải phát triển năng lực thực sự. Trong khi chúng ta mặc áo tu, sống khác người, nên dễ được người tin ta qua chiếc áo tu.

Vị tu sĩ của tông này phải nỗ lực phát triển ưu thế nhiều hơn, nhất là phải phát huy năng lực ngang tầm xã hội hay cao hơn, họ mới tồn tại được; còn kém hơn người đời thì chắc chắn không ai theo họ. Khoác áo xuất gia có lợi thế là kém người đời, chúng ta vẫn sống được. Thí dụ đơn giản như người đời có trình độ Đại học, gia đình họ có người qua đời, phải rước Thầy đến tụng kinh; Thầy không có học vị cũng được. Nhưng nên biết rằng lợi thế này khó tồn tại lâu dài trong các xã hội văn minh. Tu sĩ của Tịnh độ Chân tông phải phát triển khả năng chuyên môn để sống, không sống nhờ sự cúng dường. Ở địa phương của họ và trong ngành nghề mà họ làm việc, họ phải bằng với người khác ở lãnh vực làm việc và kiến thức, thì khả dĩ mới được chấp nhận là người lãnh đạo tinh thần của Phật tử. Tuy có gia đình, nhưng kiến thức của tu sĩ Tịnh độ Chân tông cao hơn, vì tầm hiểu biết của họ không bị đóng khuôn như người xuất gia. Họ sống gần gũi người đời và đồng thời pháp tu chủ yếu của họ là cầu nguyện, vãng sanh. Điều này cũng gần với các tôn giáo khác và cũng dễ phổ cập với đa số quần chúng. Vì mọi người sống trên cuộc đời này mà tự giác ngộ, lên Niết bàn, thì ít có người nghĩ tự bản thân họ làm được; nên họ cần tha lực. Và bản thân họ cũng có niềm tin, thường cầu nguyện và kết quả trước mắt là họ được yên lòng. Với chủ trương không cần xuất gia, nhưng siêng năng niệm hồng danh Phật và cầu vãng sanh, nên pháp tu này đơn giản, đa số thực hành được. Đó là những lý do giúp cho Tịnh độ Chân tông dễ phát triển trong xã hội đương đại của Nhật Bản.

Trong pháp hội Vô Lượng Thọ của kinh Bảo Tích, Đức Phật giới thiệu hành trạng của Phật Di Đà, nghĩa là quá trình tu hành của Ngài, theo đó tất cả thành quả mà Phật Di Đà đạt được đều do sự nỗ lực tu hành, không phải tự nhiên mà có. Tinh thần phấn đấu để thăng hoa theo kinh Vô Lượng Thọ chắc chắn dễ được xã hội văn minh ngày nay chấp nhận hơn, vì kinh vẽ ra hướng đi lên từ phát tâm đến thành Phật. Phật Di Đà từ con người bình thường tu hành, vượt lên, trở thành người phi thường. Kinh Bảo Tích nói về tu nhân của Đức Di Đà để đại chúng phát tâm tu theo, không phải chỉ nói đến cái quả cho người thích hưởng mà không muốn làm.

Vì vậy, ngài Thiên Thai xếp kinh này vào thời kỳ ức dương giáo, vì đề cao Bồ tát đạo là phát triển việc tu hành, mà chê trách cách tu yếm thế, tiêu cực, không chịu phát triển khả năng, tự chấp nhận cái mình đã có. Đa số tu sĩ ở thời kỳ Phật giáo suy đồi bằng lòng với những gì mình có. Có chùa rồi và sống qua ngày, không chịu phấn đấu đi lên. Trước kia, Phật dạy người tu sống tam thường bất túc, vì sợ họ cầu danh lợi rồi phát sanh phiền não. Nhưng nếu chấp chặt vào điều này, cứ xin ăn, ngủ gốc cây mãi thì cũng uổng phí cuộc đời.

Tôi tâm đắc quan niệm Tịnh độ Ngũ kinh đương đại, vì không phải chỉ nghĩ đến vãng sanhCực lạc, mà còn giới thiệu cho chúng ta mô hình Tịnh độ có thể thực hiện trên cuộc đời này và đưa Tịnh độ Tây phương Cực lạc về Tịnh độ ngay tronglòng người. Vì vậy, dẫn đến lập trường tâm tịnh thì thế giới tịnh; nên có thể dung thông pháp môn Tịnh độ với pháp môn Thiền và kinh tạng Pali.

Chúng ta đều biết Phật đạo có hai cánh cửa để vào là phương tiện môn và chân thật môn. Về phương tiện môn, Đức Phật đã triển khai vô số phương tiện là vô số cách tu hành khác nhau. Tuy nhiên, trong tất cả cách tu Phật dạy Bồ tát, pháp nào cũng nhằm nâng cao tri thức và đạo đức của con người. Tư tưởng Tịnh độ có khuynh hướng như thế khả dĩ chấp nhận được. Pháp môn Tịnh độ kết hợp chân thật và phương tiện. Thế giới Cực lạc là phương tiện của Phật nói ra.

Chúng ta tin tưởng rằng loài người có thể xây dựng trong cuộc sống một thế giới an vui tương tự như của Phật Di Đà. Thật vậy, ngày nay loài người thích tranh đấu, giết hại nhau. Các nước đua nhau chế tạo đủ thứ vũ khí giết người, không lo xây dựng con người. Những nhà chinh lược thế giới đều như vậy. Số tiền khổng lồ dùng để chi cho việc chế tạo vũ khí giết người và để rồi chính người của họ cũng bị giết lại. Hướng văn minh như thế làm sao có an lành được. Mặc dù sử dụng vũ khí giết người thật mạnh, thật nhiều, nhưng càng chế tạo vũ khí, thì rõ ràng cái chết càng bao vây họ. Điển hình như Tần Thủy Hoàng là nhà cai trị ác độc nổi tiếng, đến cuối cuộc đời, ông nhìn đâu cũng thấy người đến giết ông. Rõ ràng người ta muốn xây dựng thế giới an lành Cực lạc ở nhân gian, nhưng họ lại dùng tất cả công sức và tiền của để phát huy sáng kiến giết người, thì không thể nào an được.

Đạo Phật không cho phép giết hại người và muôn loài, không nuôi dưỡng lòng thù hận. Vạn Hạnh Thiền sư đã nói:

Hàng ngày trong bát cơm ăn

Quán sâu như biển, hận bằng non cao

Muốn hay binh lửa thế nào

Lắng nghe quán thịt tiếng gào đêm thâu.

Nhân loại trên toàn cầu ngày nay đang đối đầu với nạn khủng bố. Dù văn minh của con người đến cao độ, nhưng văn minh kiểu này quả là gây ra sự lo sợ vô cùng, không biết chết lúc nào. Ngoài ra, con người thời đương đại cũng đang gây ra những sự bất an khác như bệnh tật. Riêng các cường quốc thử vũ khí nguyên tử trong lòng đất, dưới biển, v.v… làm cho môi trường bị nhiễm chất độc phóng xạ, gây ra những bệnh nguy hiểm, cộng với những chất độc khác do các nhà máy thải ra trong không khí, xả vào sông biển, đất đai, v.v... Càng văn minh theo cách ấy, thì càng tạo nhiều đau khổ.

Ngược lại, pháp môn Tịnh độ giới thiệu thế giới văn minh là mô hình xã hội văn minh thực sự an lành của Đức Phật. Văn minh của xã hội theo đạo Phật khác với cách xây dựng thế giới của con người ngày nay. Mở đầu Đức Phật giới thiệu cho chúng ta một vị Bồ tát khởi tâm tu theo đạo Phật là vua Vô Tránh Niệm. Ông vua này không hề chi phí một đồng xu cho chiến tranh như các ông Tổng Thống của những đại cường quốc ngày nay chi cả trăm tỷ đô la cho việc chế tạo vũ khí giết người. Đức Phật giới thiệu một mẫu người là vua Vô Tránh Niệm không hề tranh chấp, không có hận thù.

Thực tế cho thấy người nào không tranh chấp, không gây hận thù, chắc chắn có cuộc sống an lành. Điều này chứng minh được trong cuộc sống và cũng không trái với tinh thần Phật giáo Nguyên thủy dạy rằng:

Hận thù diệt hận thù

Đời này không có được

Không hận diệt hận thù

Là định luật ngàn thu.

Có thể nói kinh Bảo Tích và kinh Nguyên thủy là một, cốt lõi của Phật dạy không khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng kinh Nguyên thủy dùng một bài kệ để giải thích, trong khi kinh Đại thừa giải thích rộng theo hoàn cảnh xã hội. Hai ý này trong kinh Bảo Tích và Nguyên thủy là một. Không phải kinh Nguyên thủy không đề cập đến, nhưng có dưới hình thức khác, hiểu ở dạng khác. Cũng như đối trước cùng một việc, ngườitrình độ cao sẽ thấy và hiểu theo cách riêng của họ.

Cốt lõi của pháp môn Tịnh độ được thể hiện qua tư cách của vua Vô Tránh Niệm không có tâm hơn thua, không có tâm chinh phục kẻ khác. Thực tế cho thấy tất cả ông vua đều theo tham vọng, muốn hưởng thụ sung sướng, muốn chà đạp người khác. Nhưng ở đây xây dựng mô hình Thánh vương gọi là Chuyển luân Thánh vương dùng đức cảm hóa người. Lịch sử đã ghi nhận rằng thời Lý ở nước ta là thời kỳ an ổn nhất. Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, thời Lý hiền từ nhất phải nói là nhờ công lao giáo hóa của đạo Phật. Các vua Lý đã dùng tình thương theo Phật dạy mà trang trải cho dân, dùng tâm trong sạch để hiểu lòng dân. Sử ghi rằng vua Lý Thánh Tông nói một câu thật cảm động: "Trẫm mặc áo gấm, sưởi lò than còn rét, huống chi người vô tình phạm pháp bị giam cầm trong ngục tối, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, khổ biết dường nào”. Và ông đã ra lệnh cho tù nhân thêm cơm ăn, áo ấm, thả những tù nhân đã biết cải hóa tốt. Hoặc Ỷ Lan thứ phi nói rằng dân làm ra của cải thì mất mùa phải lấy của trong kho chia sẻ cho dân.

Vua và dân thương nhau, cần nhau, bảo vệ nhau, thể hiện lời Phật dạy trong kinh ứng dụng được trong cuộc sống. Vua Vô Tránh Niệm là người tiêu biểu trong kinh mà chúng ta không thấy được; nhưng đưa hình ảnh vua Vô Tránh Niệm về ông vua nhân từ ở thế gian như các vua đời Lý, chứng minh rằng xây dựng Tịnh độ ở nhân gian là điều có thể thực hiện được.

Vua Vô Tránh Niệm hiền lành, đức độ, không tranh chấp; nhưng không ai tranh chấp được với ông và không ai hơn ông được. Phật cũng dạy trong kinh Nguyên thủy rằng Phật không tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với Ngài. Có thể nói cuộc sống của vua Vô Tránh Niệm so với Phật Thích Ca trên cuộc đời, tuy hai mà một. Đức Phật thường mượn một việc nào để nói đến việc của Ngài. Nói về Phật Di Đà, nhưng nhìn lại Phật Thích Ca, chúng ta thấy rõ ở Ngài thể hiện sâu sắc tính chất của Phật Di Đà. Hay nói cách khác, Phật Thích Ca cũng là Phật Di Đà, Phật ở thế giới Cực lạc va Phật hiện tại ở Ta bà giống nhau.

Theo tôi, suy nghĩ và áp dụng tánh không tranh chấp là tu Tịnh độ theo Ngũ kinh. Tôi thường nghĩ làm thế nào được người tín nhiệm, chấp nhận, thì dứt khoát không ai hại ta được. Dùng thủ đoạn để hại người, hạn chế sinh hoạt của người để vươn lên, không thể tồn tại lâu dài. Trên bước đường tu đạo Bồ tát, muốn làm Phật trong tương lai, Tăng Ni cần suy nghĩ kỹ ý này. Thí dụ đơn giản như trong lớp, người làm lớp trưởng phải biết thương và lo cho đại chúng, thì ai cũng phải đề cử người này. Còn lớp trưởng nghĩ ta đứng trên người khác, có quyền uy, họ sẽ không chấp nhận, sẽ dẹp ta để họ lên.

Người Trung Hoa có câu nói rằng trên cuộc đời, bao giờ cũng có lớp người mới đẩy người cũ đi. Nhưng người cũ có uy tín lớn và tốt quá, thì không ai thay được. Điển hình như Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương, dù ngài không nói gì, nhưng ai cũng kính ngài là Thầy. Có thể hiểu đó là tinh thần của Vô Tránh Niệm. Trở thành lãnh đạo là phải có sự hiểu biết trên mọi người, thực tế là hiểu biết của ta phải được mọi người chấp nhận. Trong một tổ chức, người thông minh nhất thì sớm muộn gì cũng lãnh đạo. Vì thế, lãnh đạo mà thấy có người hiểu biết hơn, thì tốt nhất ta nên giao việc lại cho họ. Nếu sự hiểu biết của người lãnh đạo mà thua người dưới, đó là tai họa. Khi người lãnh đạo không xứng đáng, ta bực bội, khó chịu, thì ta cũng biết người khác bực bội thế nào khi ta lãnh đạo.

Trước khi giới thiệu Phật Vô Lượng Thọ trong pháp hội này, Đức Phật Thích Ca hiện hảo tướng. Tại sao Ngài hiện hảo tướng. Tu hành chúng ta dễ nhận ra điều này. Thật vậy, tâm của người thường thể hiện ra nét mặt của họ. Cùng một người, nhưng có lúc họ hiền lành, dễ thương, có lúc nghiêm khắc, lo buồn. Những sự biểu lộ này là phản ảnh của sự diễn biến tâm lý con người. Thí dụ vị trụ trì chùa lớn, chúng đông, mặt thường nhăn; vì phai khổ cực, lo nhiều. Hoặc Thầy Tri sự thường đăm chiêu hay la mắng đại chúng; vì họ có trách nhiệm lớn nên thường suy nghĩ về chùa, về đại chúng.

Trong thời gian đầu, chúng Tăng theo Phật tu hành, thấy Phật trầm tư mặc tưởng, nên đại chúng cũng giữ sự trầm mặc và tâm được yên tịnh, hình tướng oai nghi, thanh tịnh theo. Sống trong Thiền môn, tôi có kinh nghiệm này; nếu vị trụ trì không nói nhiều và trang nghiêm cũng sẽ khiến đại chúng theo đó thúc liễm thân tâm.

Mười hai năm đầu giáo hóa, Đức Phật ít nói, sáng đi hóa duyên, dùng bữa trưa xong, Ngài ngồi Thiền dưới gốc cây. Sau đó, chuyển qua pháp Đại thừa, Đức Phật bắt đầu thuyết pháp độ sanh và trong pháp hội này, Ngài hiện tướng rất vui. A Nan thấy vậy mới hỏi tại sao suốt thời gian dài, không thấy Phật vui, mà hôm nay lại có tướng lành này.

Đức Phật cho biết Ngai luôn khắc khổ, vì suốt mười hai năm, Ngài nghĩ đến việc giáo dưỡng đại chúng và phải thể hiện nét kiểu mẫu cho đại chúng noi theo tu hành. Hôm nay, đại chúng đã thâm nhập Phật đạo, đắc quả, nên Phật muốn chỉ những việc cao hơn; đó là nhân hạnh của các Đức Phật mười phương. Hiện tại, Ngài đang nghĩ đến Phật Di Đà là giáo chủ thế giới Cực lạc ở phương Tây, mới hiện nét mặt rạng rỡ như vậy.

Ý này cho thấy pháp môn Tịnh độ tiêu biểu cho tinh thần tích cực, không phải buồn rầu, chán đời như nhiều người lầm tưởng. Thế giới vui cực kỳ này là Tịnh độ, vì tâm của hành giả ở đó hoàn toàn an vui, thânhoàn toàn khỏe mạnh, hoàn cảnh hoàn toànđầy đủ, trong sạch và xã hội hoàn toàn tốt đẹp. Đó là mở đầu của Tịnh độ mà chúng ta học để xây dựng Tịnh độ tự tâm vàTịnh độ xã hội. Người Nhật tiếp thu tinh thần Tịnh độ như vậy, họ xây dựng Tịnh độ nhân gian để tăng tuổi thọ, sức khỏe tốt, hiểu biết rộng, năng lực và đạo đức cao hơn người đời.

Phật Thích Ca vui ra mặt khi nhớ đến Phật Di Đà, hình ảnh này đã giải thích được Phật Di Đà như thế nào. Nhớ Phật Di Đà mà khóc là sai. Tôi nhớ Phật Di Đà, niệm hồng danh Ngài, thấy an lòng. Thí dụ chúng ta có người thân quen ở thế giới an lành và thành đạt thì nhớ họ, ta phải vui chớ; nhớ họ đang sa cơ thất thế thì ta mới khổ. Phật Di Đà là người cao quý toàn diện, nhớ Ngài ta vui quá, sao khổ được. Bắt gặp hồng danh Di Đà như gặp chiếc phao cứu mạng, giúp ta khai thông mọi việc.

Niệm Phật là nghĩ đến Phật. Người tu chân chính dù hoàn cảnh thế nào, niệm Phật cũng thấy an nhiên. Đức Phật muốn giới thiệu pháp niệm Phật để được an vui, nên trước tiên Ngài nghĩ đến Phật Di Đà hay Phật Vô Lượng Thọ. Phật Thích Ca dạy rằng Phật Vô Lượng Thọ có công đức lớn hơn bất cứ Phật nào trong mười phương, nên chúng sanh nghĩ đến Ngài là được an lành. Vô Lượng Thọ nghĩa là cuộc sống rất lâu dài đến vô lượng. Ngài còn có tên là Vô Lượng Quang, vì ánh sáng trí tuệ của Phật Di Đà chiếu khắp mười phương, không chỗ nào không tới. Vì vậy, niệm Phật Di Đà đúng pháp, sẽ tiếp nhận được ánh sáng trí tuệ của Ngài soi rọi đến ta. Ngài cũng có tên là Vô Lượng Công đức, nên công đức của Ngài có thể bảo hộ, che chở cho chúng sanh nào nghĩ tưởng đến Ngài. Như vậy, chúng ta niệm Phật Di Đà là thâm tâm suy nghĩ về ý nghĩa vô lượng thọ, vô lượng quang và vô lượng công đức.

Khi đại chúng đã niệm ba việc quan trọng của Phật Di Đà, mới nghĩ rằng tại sao Ngài được như vậy. Và A Nan đại diện chúng hội, hỏi Phật ý này. Phật Thích Ca liền nói về nhân hạnh của Phật Di Đà khi Ngài tu Bồ tát hạnh. Phải có quá trình tu, không thể tự nhiên mà có quả. Phật Thích Ca kể chuyện tiền thân Phật Di Đà là vua Vô Tránh Niệm đã giỏi mà lại có chí ham học, cầu tiến. Vì trong nước không có ai hơn ông, nên ông làm Chuyển luân Thánh vương. Nhưng khi gặp Phật Thế Tự Tại Vương là bậc tài đức nhất, ông liền bỏ ngôi vua, tu theo Phật. Hai tâm hồn lớn gặp nhau là vậy. Vua ao ước những gì có giá trị vĩnh cửu, thì nay gặp được Phật Thế Tự Tại Vương có sẵn của báu vô giá, ông liền từ bỏ của cải thế gian để đi theo Phật là tất yếu. Và Phật Thế Tự Tại Vương gặp Vô Tránh Niệm là người có đủ điều kiện hoàn hảo để tu thành Phật, Ngài mới có cơ hội để nói pháp. Vì vậy, pháp Phật triển khai khác nhau cao thấp là tùy theo đối tượng nghe, nên kinh điển mới phân chia thành Tiểu thừa và Đại thừa.

Đức Phật cho biết sở dĩ nhà vua có tên Vô Tránh Niệm, vì ông lập hạnh không tranh cãi với người, không có ý thức tranh chấp với bất cứ ai. Khi còn làm vua, Phật Di Đà đã có tâm niệm rất tốt lành như vậy và đó chính là hạt nhân xuất gia của Ngài về sau, giúp Ngài thành Phật Di Đà. Người tranh giành với Ngài, nhưng Ngài không hơn thua, tranh giành với ai, chỉ hướng tâm tu hành giải thoát. Còn hơn thua tranh chấp chỉ dẫn vào mê hồn trận, không thoát được và phải chuốc lấy khổ đau, tội lỗi.

Có Vô Tránh Niệm thọ giới Tỳ kheo, Phật mới nói pháp Đại thừa và đổi tên ông thành Tỳ kheo Pháp Tạng. Các vị Bồ tát đều do hạnh tu mà thành danh. Có sự hiệnhữu của Tỳ kheo Pháp Tạng, người ta nhận thấy rõ một bên là chúng thanh tịnh và một bên là chúng ô hợp. Và Phật rời chúng ô hợp, thuyết pháp cho chúng thanh tịnh nghe, là thuyết pháp Đại thừa nói về hành trạng của chư Phật mười phương hay pháp tu của mười phương Phật. Giảng về hằng hà sa số Phật, nhưng người căn tánh chưa thuần không quan tâm đến. Trái lại, người có căn tánh Đại thừa như Tỳ kheo Pháp Tạng nghe những việc cần làm để thành Phật, thì chú tâm theo dõi và nhập tâm đến mức trong tâm chỉ toàn là pháp Phật, mới có tên Pháp Tạng. Ngày nay, chúng ta cũng thấy rõ điều này. Người tu cầu thành Phật không quan tâm đến tiền bạc, cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Người vì hoàn cảnh tu, vô chùa tranh giành cơm áo từng chút, nghe nơi nào sung sướng hưởng thụ, có trai tăng liền tìm đến, nơi khắc khổ tu hành thì tránh. Muốn thành Phật phải chịu khổ, muốn thành ma thì cứ hưởng thụ.

Phật giảng việc cực khổ của Bồ tát hạnh cho Tỳ kheo Pháp Tạng. Ông nghe Phật nói gì cũng nhớ kỹ, giống như A Nan làm thị giả của Phật Thích Ca, ghi nhớ không sót tất cả pháp Phật đã dạy. Chúng ta cũng nên lập hạnh, chỉ lo đem tất cả pháp Phật vào tâm mình. Nhớ kinh, nhớ Phật rất rõ, còn việc thế gian quên hết. Dứt khoát tu hành phải vậy, pháp Phật nhớ càng nhiều càng tốt. Theo tôi, làm gì chưa được cũng không cần, nhưng nhớ được pháp Phật là quý nhất.

Trong kinh Bi Hoa cũng nói đến tiền thân của Phật Di Đà làm vua, gặp được Bảo Tạng Như Lai mới phát tâm xuất gia. Bảo Tạng là kho báu mà kinh Pháp Hoa gọi là Bảo sở. Đi tu mà gặp được kho báu thì còn màng gì đến mọi thứ khác, mới coi phú quý lợi danh như rác rưởi. Ngày nay, anh em xuất gia thấy đạo là thiêng liêng cao cả và đem tất cả sinh mạng mà cầu, mới đạt kết quả tốt. Không thấy sự siêu tuyệt của đạo, mà chỉ nhìn xuống thì kẹt nhiều thứ lắm. Thuở nhỏ đi tu, đến chùa nào, tôi cũng không bằng lòng, không biết rõ đạo là gì, nhưng luôn nghĩ rằng mình phải tìm cái cao quý nhất. Đi tìm đạo tôi coi như tìm kho báu và khi bắt gặp bộ kinh ta tâm đắc, hay gặp được vị Đạo sư mà ta kính trọng, giống như đã gặp được của báu, mới hết lòng tu. Thật vậy, Nhật Liên Thánh nhân gặp kinh Pháp Hoa, tâm đắc nhất phẩm Như Lai Thọ Lượng. Hoằng Pháp đại sư tâm đắc bộ kinh Đại Nhựt. Ngài Thân Loan tâm đắc kinh Vô Lượng Thọ, hay tất cả các vị Thánh Tăng đều tâm đắc một bộ kinh, theo đó tu hành, thể nghiệm bằng tất cả sinh mạng.

Bảo Tạng Như Lai là bậc Thầy có trí tuệ mà ta theo học, nghe không chán. Không có được như vậy, không thành đạt trên bước đường tu. Chúng ta gặp Bảo Tạng Như Lai hay gặp tạng kinh nào đó như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bảo Tích... và nhiệt tâm tu hành, chúng ta sẽ thuộc lòng kinh, hiểu và sống với kinh. Vua Vô Tránh Niệm thích giáo nghĩa kinh, an trú trong kinh, mà ông trở thành Tỳ kheo Pháp Tạng. Thầy là Bảo Tạng, trò là Pháp Tạng. Nay chúng ta tu, thích pháp nào, thì trong tâm trí chúng ta có Bảo Tạng Như Lai, nói cùng kiếp không hết. Riêng tôi, có sự tích lũy do thích thú, nên thuyết pháp không chán. Trở thành kho chứa Phật pháp là Tỳ kheo có trí tuệ. Tỳ kheo thì giống nhau về hình thức, nhưng thực chất ai là Pháp Tạng chứa đầy Phật pháp. Trong đầu trống rỗng, không có gì là đi theo hướng tiêu cực; trong đầu toàn những thứ gì, thì còn khác nữa.

Vua Vô Tránh Niệm sẵn sàng bỏ ngôi, làm Pháp Tạng Tỳ kheo, không phải Tỳ kheo tầm thường. Vị Tỳ kheo này thể hiện tinh thần ham học, tập hợp tất cả kiến thức của chư Phật. Trong kinh nói Ngài học được mô hình xây dựng của hai trăm mười ức thế giới chư Phật. Từ bỏ ngôi vua đi tu mới được tài sản quý báu vô giá này, không phải đi tu để trở thành không biết gì, hay vô chùa để hưởng thụ. Vô chùa học được văn minh của nhân loại, là hai trăm mười ức Tịnh độ của chư Phật. Vô chùa không có gì để học, trở thành dở dở ương ương là sai lầm lớn. Riêng tôi, nhờ đi tu mới có điều kiện nghiên cứu, có thì giờ học hỏi nhiều. Vô Tránh Niệm bỏ ngôi đi tu, dành tất cả thì giờ học, nghiên cứu, mới trở thành Tỳ kheo giỏi nhất. Mỗi người chúng ta học Phật hay học gì cũng vậy, người chịu học, chịu tìm hiểu sẽ được kết quả tốt.

Qua hình ảnh vua Vô Tránh Niệm không có ý hơn thua với người, nhưng người phải chấp nhận ông là lãnh đạo, đạo Phật muốn dạy chúng ta cốt lõi quan trọng rằng không phải tranh giành, tiêu diệt lẫn nhau mà được. Thực chất của việc thành công là phát triển năng lực, hiểu biết và đạo đức của chính mỗi người. Trong đại chúng, người có hiểu biết cao nhất, đương nhiên được tôn trọng. Tu hành của chúng ta nhằm không ngừng phát huy sự hiểu biết; cho nên ngày nào sự hiểu biết của chúng ta không vượt thời đại là còn phải nỗ lực học hỏi.

Phải có sự hiểu biết hơn người là Phật Thích Ca muốn giới thiệu cho chúng ta đặc điểm vô lượng quang của Phật Di Đà. Từ một nước nhỏ ở nhân gian, Ngài phát triển thành Cực lạc thế giới ở phương Tây. Thực tế cuộc sống tốt đẹp thì lý tưởng phải tốt hơn. Từ vua Vô Tránh Niệm tài giỏi, đức độ, thăng hoa, trở thành Phật Di Đà là tất yếu của sự tiến hóa. Vua Vô Tránh Niệm ở Ta bà tu hành thành Phật Di Đà ở Tây phương Cực lạc; tuy hai mà một, thể hiện sự phát xuất từ nhân hạnh tốt, mới gặt hái được quả vị Vô thượng giác.

Vua không tranh chấp thì làm thế nào lãnh đạo. Phật giáo chủ yếu muốn giới thiệu ngoài sự hiểu biết sâu rộng, còn phải co đạo đức và tài năng thực sự. Ngày nay đạo đức cũng được coi là yếu tố quan trọng trong mọi quốc gia. Con người đạo đức luôn là biểu tượng cần có, như Thiên Hoàng của Nhật Bản không trực tiếp lãnh đạo, nhưng là người tiêu biểu được dân Nhật kính trọng.

Trên bước đường tu, cần phát triển đạo đức bản thân để người xung quanh chấp nhận, là điều quan trọng của người lãnh đạo theo Phật giáo; mọi người phải chấp nhận họ, không thể khác, không có vấn đề lý luận ở đây. Người đạo đức do tu hành có được sức cảm hóa người khác. Họ không tranh chấp, vì không nghĩ đến quyền lợi bản thân, chỉ lo cho người, làm vì người. Đó chính là tinh thần vị tha vô ngã của đạo Phật, không có cái ta, sở hữu của ta, mọi việc làm đều theo yêu cầu của đạo pháp, của xã hội. Vì quyền lợi cá nhân, chắc chắn có tranh chấp. Đi vào đời, làm được việc cho mọi người, mới có thể phát tâm xuất gia và làm nên Đạo nghiệp. Theo gương của Phật Di Đà, nếu thực sự không màng phú quý lợi danh, ta sẵn lòng làm những gì mà người nhờ; không nhờ thì ta sẵn sàng buông bỏ tất cả. Hình ảnh cao quý của vua Trần Thái Tông mà lịch sử còn ghi đậm nét son, cũng thể hiện rõ tinh thần chẳng ham quyền quý lợi danh, sẵn sàng bỏ ngôi vua như bỏ chiếc giày rách.

Tôi tâm đắc ý này, nỗ lực làm những việc mà Tăng sai, Giáo hội tín nhiệm giao phó. Khi hết duyên làm việc, sẵn sàng nghỉ; không có gì phải tranh cãi hay tranh giành. Người không cần nghe thì thôi, ta cũng không cần nói. Suy nghĩ về vô lượng công đức của Phật Di Đà là không bao giờ bắt buộc người nghe theo mình.

Ngoài ra, vua Vô Tránh Niệm gặp Thế Tự Tại Vương là vị Phật tự tại trong cuộc đời, nói lên ý nghĩa giải thoát của đạo Phật. Lý tưởng của người tu là giải thoát trong cuộc đời. Tự tại và giải thoát đồng một nghĩa, không có sự ràng buộc nào đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta vô dụng, vô ích. Giải thoát, nhưng rất có ích cho cuộc đời, là điều chúng ta cần suy nghĩ.

Giữa Phật Thế Tự Tại Vương và vua Vô Tránh Niệm có ảnh hưởng lẫn nhau, cũng nhằm dạy rằng người tu được giải thoát, nhưng sự giải thoát này tác động tốt đẹp cho cuộc đời.Chúng ta không lãnh nhiệm vụ nào, nhưng sự hiện hữu của chúng ta là cần thiết, lợi ích cho nhiều người; mất sự tác dụng này không phải là đệ tử Phật. Những đặc điểm như vậy của đạo Phật đương nhiên thích hợp với thời đại văn minh.

Nhờ tự tại giải thoát, Phật Thế Tự Tại Vương mới thấy xa hiểu rộng. Người đời hiểu biết không bằng người tu, vì họ bị ràng buộcgia đình, ở công ăn việc làm, ở danh lợi, địa vị, v.v…; trí của họ không thể mở rộng được như người tu. Hiểu rộng là biết cả năm châu bốn biển, Phật Thế Tự Tại Vương mới chỉ dẫn cho vua Vô Tránh Niệm cách tổ chức của hai trăm mười ức Phật độ. Điều này thể hiện ý nghĩa rằng người tu không trực tiếp sản xuất, nhưng đóng góp trí tuệ cho cuộc sống, giúp cho sự phát triển của đất nước trong nhiều lãnh vực. Từ xưa, các nhà truyền giáo đạo Phật đến đâu, đem lại văn minh đến đó. Điển hình là nền văn minh chính yếu của nước Nhật xưa kia do các nhà sưTrung Hoa mang đến. Ngày nay, chúng ta mới coi chất xám quan trọng nhất. Trước kia cứ nghĩ lao động chân tay là chính, trực tiếp làm ra của cải; nhưng chính lao động trí óc mới làm cho năng suất tăng gấp vạn lần. Đạo Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp là quá đúng.

Phật Thế Tự Tại Vương hiểu biết hai trăm mười ức thế giới Phật chứng tỏ sự hiểu biết của Ngài vượt hơn hẳn mọi người. Người lãnh đạo thấy xa hiểu rộng như vậy, thì xã hội phải được bình yên và phát triển. Ngài biết rõ hai trăm mười ức Phật độ, nói theo ngày nay là biết chánh thể, luật pháp của hai trăm mười ức quốc gia. Khi học luật pháp ở Nhật, tôi nghĩ mình tu thì học thứ này làm chi. Nhưng họ nói rằng không học, không biết, thì sống giữa cuộc đời này coi như vứt đi. Mới nghe tôi tự ái lắm. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ lại mới thấy rằng mình chưa giải thoát, đụng việc mới biết mình còn phiền não.

Biết Cực lạc ở xa chưa nói đến, nhưng thực tế biết rõ trên trái đất này có bao nhiêu quốc gia, bao nhiêu chế độ, chánh thể. Nhờ biết điều đó, nhà truyền giáo đến đâu đóng góptrí tuệ để xây dựng nơi đó phồn vinh. Vì tu sĩ là người rảnh rỗi nhất trên đời và lại giải thoát, có thì giờ đọc sách và hiểu hơn người đời.

Phật Thế Tự Tại Vương làm Thầy thiên hạ, vì hiểu biết hơn mọi người. Ngài làm Thầy của vua Vô Tránh Niệm là vậy, vì làm Thầy của vua không dễ. Vua chỉ biết một nước, nhưng Phật biết đến hai trăm mười ức nước, nên vua phải đảnh lễ Phật để học. Vua còn kẹt trong việc trị nước; trong khi Phật hoàn toàn thanh thản, chẳng vướng bận gì, mới có tâm trí bao quát thế sự.

Khi Phật giáo chúng ta có người hiểu biết và áp dụng được tinh ba trí tuệ vào việc ích nước lợi dân thì hưng thạnh; còn chỉ lo quyên tiền xây chùa thì hỏng. Việc xây chùa là thứ yếu. Việc chính làm sao có tầm nhìn sáng suốt để giúp đời. Được như vay, các Thầy có thể có một chùa, hay mười chùa, trăm chùa không khó. Thực tế cho thấy một quốc sư giúp vua trị nước an dân, làm cho đất nước thạnh trị, thì ông vua này xuất tiền xây chùa lớn biết bao nhiêu. Các ngôi chùa vĩ đại ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Hoa còn lại ngày nay đều do vua chúa phát tâm xây dựng. Thánh Vũ Thiên Hoàng của nước Nhật ban chiếu rằng ai có đồng phải đem dâng hiến để đúc tượng Phật Tỳ Lô Giá Na. Chỉ vua làm được việc đó. Khi chúng ta phát huy được trí tuệ, thấy nhiều điều hay và cho người lời khuyên, giúp đất nước thái bình thịnh vượng. Công của chúng ta như vậy rất lớn và thể hiện đúng ý nghĩa Phật dạy là làm an lạc cho số đông.

Phật Thế Tự Tại Vương dạy vua Vô Tránh Niệm cách xây dựng quốc gia, cách quản lý một nước. Dùng sức mạnh để trấn át người là bá quyền, dùng luật pháp cai trị là pháp quyền hay vương đạo. Riêng Phật giáo giới thiệu hình thức quản lý quốc gia tốt nhất là đức trị, dùng đức để cảm hóa. Không hiểu,không sử dụng được đức cảm hóa, e rằng chưa phải người tu. Thật vậy, người tu không được dùng quyền uy, luật pháp để trị người, chỉ dùng đức độ để cảm hóa, thì đời này dẫn đến nhiều đời sau, tái sanh gặp lại người mà chúng ta từng cưu mang, giúp đỡ, ta và họ đều được an lạc vô cùng; họ sẽ hết lòng quý trọng chúng ta.

Phật Thế Tự Tại Vương giỏi tuyệt vời như vậy, Pháp Tạng Tỳ kheo không kính phục sao được. Phật lại từng chỉ dạy ông những điều quý báu mà không ai biết nổi, thì vua phải thương Ngài vô cùng, là điều tất yếu. Được Phật Thế Tự Tại Vương hướng dẫn để thâm nhập hai trăm mười ức Phật độ, Pháp Tạng phải bỏ ra năm đại kiếp để nghiên cứu; vì hai trăm mười ức Phật độ không đơn giản. Mỗi thế giới đều có đặc sắc riêng. Cũng vậy, mỗi bộ kinh có nét tinh túy riêng, mỗi giảng sư có sở trường khác nhau. Anh em phải tổng hợp tất cả tinh ba, xây dựng được cái đặc biệt của chính mình mới quan trọng; không phải bắt chước người khác.

Phật Di Đà đưa ra bốn mươi tám lời nguyện là mô hình xây dựng Tịnh độ Tây phương. Anh em nghiên cứu bốn mươi tám nguyện của Ngài và giới thiệu bằng ngôn ngữ thời đại của chúng ta. Ngài nguyện nếu không thành tựu như ước muốn, thì không làm Phật. Khởi điểm của người tu là nguyện, nghĩa là ước mơ, định hướng để đi tới, có mục tiêu để đạt cho được. Chưa thực hiện đầy đủ nguyện, phải tiếp tục tu hạnh Bồ tát trọn vẹn, mới làm Phật. Anh em cũng phải lập nguyện, đến khi tròn hạnh mới dừng. Nếu kết hợp với kinh Duy Ma thì làm được phần nào sẽ có được Tịnh độ của Bồ tát phần đó; vì Tịnh độ của Bồ tát không viên mãn như Tịnh độ của Phật.

Có mục tiêu rồi, công việc thực hiện cũng cần có quá trình. Theo đó, việc thứ nhất là Pháp Tạng xây dựng cho ngài sự hiểu biết càng chính xác càng tốt, càng rộng càng hay. Học rộng thấy nhiều là Phật. Riêng tôi suy nghĩ, muốn xây dựng ngôi chùa ở thế kỷ XXI cho Việt Nam, nhưng cũng chưa xây và tôi quan sát các chùa cổ, chùa hiện đại, tham quan các chùa Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Hoa, v.v… để xem kiểu chùa nào mình thích. Tôi có cảm giác Pháp Tạng Tỳ kheo cũng vậy. Tôi cũng chưa bằng lòng với mẫu chùa nào đang có trên thế giới. Tôi tham quan đại Thánhđường chùa Đại Thạch ở Nhật, ngôi chùa này được nhiều người cho là lý tưởng, nhưng tôi cũng chưa hoàn toàn hài lòng. Tuy nhiên, mẫu chùa này tương đối tốt, vì do một ngàn kiến trúc sư kết hợp tất cả điểm hay của các chùa Nhật Bản, Trung Hoa, Hàn Quốc, cùng với các Thánh đường của Hồi giáo và ThiênChúa giáo để xây dựng ngôi chùa này. Anh kiến trúc sư trưởng của ngôi chùa này cho tôi biết rằng mỗi chùa hay Thánh đường có điểm đặc sắc riêng. Theo anh, đền thờ của Hồi giáo có cách kiến trúc đặc biệt là âm thanh phát ra trong đền thờ khiến người ở gần nghe không điếc tai, mà người ở xa nghe cũng rõ. Nhà thờ của Chánh Thống giáo cũng có điểm hay, bên trên gắn những tấm gương phản chiếu, tạo thành ánh sáng hài hòa trong giảng đường.

Tịnh độ của Phật Di Đà tổng hợp được tất cả văn minh của nhân loại, vì Phật là đấng trí tuệ bậc nhất; nên nước Phật phải là nước văn minh nhất. Ngày nay quan sát thấy nhiều kiểu mẫu xây dựng, anh em suy nghĩ để xây dựng hội trường, hay chùa của mình như thế nào và dùng để làm gì. Đa số người thường nghĩ có tiền là xây chùa, nhưng xây rồi lại không sử dụng. Tôi thấy người mình lãng phí rất lớn. Phật tử thì nghèo, có bao nhiêu tiền dốc hết để xây chùa; nhưng 90% xây xong để đó, chỉ dùng làm cảnh tham quan thì nhiều. Thí dụ chùa có giảng đường, một tuần chỉ giảng một buổi, hay một tháng một lần, hoặc một năm vài lần. Chùa có giảng đường, chánh điện, Tăng xá, nhưng ít khi sử dụng hết công suất, là lãng phí lớn. Chúng ta đầu tư cách đó không mang lại hiệu quả. Nước văn minh xây dựng giảng đường phải nghĩ cách sử dụng liên tục.

Học Phật Di Đà, chúng ta học cách tổng hợp tất cả Tịnh độ như Ngài, để xây dựng một thế giới, ở đó có cách sắp đặt mọi thứ, từ đất nước, chim chóc, cây cảnh, ao sen, gió reo, tiếng nhạc, v.v… Tất cả đều được tận dụng trọn vẹn, tác động cho người phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát đạo, thăng tiến quả vị. Chúng ta cũng vậy, tổng hợp tất cả văn minh của thời đại và xây dựng cho Phật giáo một ngôi chùa làm ích lợi cho nhiều người.

Phật Thế Tự Tại Vương giới thiệu thế giới Phật mười phương và hỏi Pháp Tạng Tỳ kheo thích thế giới nào. Mỗi người đều có sở thích riêng. Thích thì khó mấy cũng làm được. Phải thích pháp môn mình tu, mới đem hết sinh mạng hành đạo, mới đạt kết quả tốt. Không thích thì làm lấy lệ, không thành công. Ai thích pháp nào tu pháp đó, thích Phật nào theo Phật đó. Riêng Pháp Tạng Tỳ kheo không thích thế giới nào, chỉ thích cái của ông. Theo tôi, thích những gì của mình là an lạc nhất trần gian, thích cái của người thì khổ.

Pháp Tạng học tất cả việc làm của chư Phật mười phương và học xong thì phát huy sở trường của ngài để thành Phật và xây dựng mô hình thế giới theo sáng tạo của riêng ngài, không theo khuôn mẫu cố định có sẵn. Ý này của Pháp Tạng cũng nhắc chúng ta nối gót theo dấu chân Phật, trân trọng những thành quả của bậc tiền nhân, nhưngphải có việc làm thích hợp với thời đại của chúng ta; vì thời hiện đại khác xa hai ngàn năm trước.

Các Đức Phật xây dựng Tịnh độ theo những phương cách khác nhau. Phật Di Đà cũng vậy, kiến tạo thế giới Cực lạc theo mô hình riêng biệt. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng mười phương Tịnh độ của chư Phật đều do tâm thanh tịnh, nên hiện cảnh thanh tịnh theo. Mười phương Phật tu theo dạng này, các Ngài không xây dựng tịnh xá. Trái lại, Phật Di Đà xây dựng thế giới Cực lạc bằng cách từ thật tướng vô hình hiện ra phương tiện, nên thế giới Cực lạc của Ngài mới có tên là Phương tiện Thánh cư độ. Pháp của Phật mười phương là tâm thanh tịnh thì hoàn cảnh thanh tịnh theo. Pháp này chỉ thích hợp cho hàng thượng căn có thể tự thanh tịnh hóa tâm. Nhưng đối với người còn đầy phiền não, nghiệp chướng, không thể tự mình thanh tịnh, phải nương nhờ hoàn cảnh thanh tịnh thì tâm họ mới theo đó mà giải thoát. Phật Di Đà đã hoàn toàn thanh tịnh giải thoát rồi. Ngài muốn tiếp Tăng độ chúng, phải tạo điều kiện cho họ dễ tu, bằng cách xây dựng thế giới Cực lạc thanh tịnh, an vui hoàn toàn. Tuy nhiên, Phật Di Đà
từ tâm thanh tịnh khởi đại bi để xây dựng nhà cửa, lầu các bên ngoài cho mọi người nương
nhờ, khác với người xây nhà do vọng tâm dựng lên thì khổ hoài, vì tranh chấp luôn xảy ra.

Theo tinh thần tất cả vì mọi người của Phật Di Đà, ngày nay chúng ta xây chùa để Phật tử đến chiêm bái, tụng kinh, lễ Phật; xây giảng đường để người nghe pháp, tu hành; xây Tăng xá cho Tăng chúng ở, tu học. Chúng ta không có quyền lợi gì cả và cũng không có gì của ta. Tiền bạc của thập phương bá tánh, Tăng sĩ tu hành "Vô nhất vật”, tất cả là của Tam bảo, của Phật, của Tăng chúng, dù có công tạo dựng cũng không phải của ta. Nghĩ như vậy thì tâm thanh tịnh.

Bước thứ nhất, xuất gia học đạo, phát triển sự hiểu biết là chính; nhưng không phải ngừng ở đó. Hiểu biết để sử dụng, để làm việc, không phải học để lấy bằng cấp chơi. Vì vậy, bước thứ hai, để thể nghiệm pháp trong cuộc sống và thực hiện việc cứu độ chúng sanh mới đạt đến quả vị Toàn giác, Tỳ kheo Pháp Tạng đã chuyển đổi thành Bồ tát Pháp Tạng.

Tỳ kheo lấy việc tự lợi là chính, lo rèn luyện bản thân trong sạch và phát huy tri thức. Cụ thể là có trí bén nhạy, có năng lực, sức khỏe tốt và có sức chịu đựng. Thiếu những yếu tố này, khó làm nên việc. Theo kinh nghiệm của tôi, làm gì mình cũng là người đứng mũi chịu sào. Ở mũi ghe luôn nguy hiểm vì bị đụng trước. Anh em muốn làm gì, chính mình phải làm, không xúi người khác làm. Được như vậy, mới sang giai đoạn hai là hành Bồ tát đạo. Một Tỳ kheo ốm yếu, bệnh hoạn, không thể thực hiện Bồ tát hạnh. Phải khỏe mạnh, thông minh, mới bước chân vào đời hành đạo được. Một số Thầy gặp Đạo sư hướng dẫn sai, thành bệnh, không làm được gì và cũng không học được gì, mà bỏ phí mười năm, thì coi như mất tất cả.

Pháp Tạng Bồ tát học được tất cả pháp môn tu của Phật mười phương, rút kinh nghiệm của các vị Phật đi trước và tổng hợp lại. Từ đó, ngài mới sáng tạo một mô hình Tịnh độ riêng, có cách giáo hóa riêng. Cũng như anh em đi quan sát năm châu bốn biển, học với nhiều Thầy, rồi gom tất cả ý hay để xây dựng mô hình tu của chính mình trong thời hiện đại. Thầy nào có đặc sắc riêng như vậy bảo đảm sau này thành công. Trong kinh nói Phật Thế Tự Tại Vương phóng quang làm cho Pháp Tạng thấy được hai trăm mười ức Tịnh độ của chư Phật. Cũng có nghĩa là Phật Thế Tự Tại Vương giảng dạy cho Phật Di Đà nhận ra cách bố trí, quản lý và giáo dục của chư Phật mười phương.

Phật Thích Ca cho biết xưa kia Phật Thế Tự Tại Vương đã làm như vậy và nay Phật Thích Ca cũng làm như thế. Những gì Phật biết, Ngài dạy đầy đủ; nhưng đạt được sự thành công hay không là tùy chúng ta. Có thể ví Phật Thế Tự Tại Vương như kiến trúc sư trưởng giảng về hai trăm mười ức thế giới, mà chỉ có Pháp Tạng lãnh hội được; các Tỳ kheo khác chỉ nghe thôi.

Thế giới kiểu mẫu Cực lạc của Pháp Tạng thiết kế đã được hai vị Phật Thế Tự Tại Vương và Bảo Tạng Như Lai đồng ý và thọ ký cho ngài; ví như chúng ta bảo vệ luận văn thành công vậy. Trên bước đường tu, quan trọng là gặp được Phật và được Phật thọ ký, hay ấn chứng, nhất định thành công; vì tự làm, không biết đúng hay không, phải cầu bậc cao minh bảo chứng cho chúng ta. Còn khinh thường người trước, tự làm là rớt vào hàng tăng thượng mạn, bị đọa.

Được hai vị Phật ấn chứng rồi, Pháp Tạng vào đời hành Bồ tát đạo, lặn lội mười phương để giảng dạy cho người phát tâm. Và ngài ở đâu, thì người hữu duyên tự tìm đến đó. Phật nói rằng hành Bồ tát đạo, thầy trò thường sinh chung một cõi và có như vậy, mới làm được. Hành Bồ tát đạo, đi khắp mười phương tìm tri thức. Và có tri thức rồi, tập hợp những Bồ tát quyến thuộc này lại, ngài tìm một khu đất mới để xây dựng tiểu quốc gọi là An Dưỡng Quốc. Thực tế cho thấy Thủ tướng Lý Quang Diệu cũng đã thực hien mô hình xây dựng Singapore tương tự như vậy. Xưa kia, Singapore
một hải cảng của nước Malaysia. Ông Lý Quang Diệu đi khắp Malaysia tìm những người Hoa kiều sống rải rác và tập trung họ về Singapore, cũng như tập trung của cải để mua hẳn khu cảng này, tạo thành nước Singapore độc lập được sự ủng hộ của tất cả quyến thuộc của ông. Ông bắt đầu xây dựng một nước tuy nhỏ, nhưng vẫn giàu mạnh; vì tập trung được những người giàu có, tài giỏi.

Phật Di Đà xây dựng An Dưỡng Quốc gồm những người tốt, có trình độ cao, hiểu lòng nhau, cùng sống chung. Việc đầu tiên của Phật Di Đà rất thực tế, Ngài đi qua phương Tây cách đây mười muôn ức thế giới để thiết lập một tiểu quốc. Tại sao phải đi xa như vậy.

Trước tiên, Ngài chỉ tập hợp các bậc thượng thiện nhân về ở An Dưỡng Quốc, mới xây dựng thì chưa có vấn đề đưa người vãng sanh về đây. Chúng ta nên học mô hình này của Phật Di Đà, nghĩa là khi xây dựng đòi hỏi phải có người đồng hạnh đồng nguyện, đồng lao cộng khổ với chúng ta. Tôi thấy các vị Tổ sư xuất thân từ Tổ đình, nhưng không ở đó, mà đi nơi khác để thành lập đạo tràng mới. Tại sao các ngài không ở lại, mà bỏ đi. Vì ở nơi đó, bảo đảm có tranh chấp. Thực tế chúng ta thường thấy một vị Thầy viên tịch là học trò tranh chấp, khó chấp nhận nhau. Vì ở chỗ có quyền lợi, thường bị đố kỵ, nói xấu, phá hại, khó làm được gì, nên tìm chỗ khác. Điển hình như Hòa thượng Thanh Từ ra núi Lớn tu, thì người thích tu Thiền, đồng hạnh đồng nguyện với ngài tìm đến tu chung, được an ổn vô cùng. Hay Hòa thượng Thiền Tâm lên Đại Ninh cất am tu và người thích tuTịnh độ theo lên đó. Tìm chỗ mới xây dựng mô hình mới; ở chỗ cũ có sẵn, chúng ta không thể phá bỏ cơ sở vật chất cũng như không thể thay đổi pháp tu. Ngày nay, các anh em tự chọn pháp môn, muốn xây dựng Cực lạc theo ý riêng mình, đương nhiên cũng phải tìm chỗ mới.

Với tâm thanh tịnh hành đạo, Bồ tát Pháp Tạng tìm cách cứu giúp người khác tu hành; ngài bắt đầu đi khắp Ta bà tìm thiện tri thức. Cũng như các vị Tổ sư của Thiền tông cũng phải tìm người để phú pháp. Ngài tìm thiện tri thức gợi cho chúng ta suy nghĩ có người mới tạo cơ sở. Tôi không có cơ sở vì không có người; sợ nhất có cơ sở, nhưng không có người quản lý. Người phước lớn ở chỗ lớn, phước nhỏ ở chỗ nhỏ, không phước thì không có chỗ ở.

Phải đi tìm bạn hợp tác, vì một mình dù giỏi, cũng không làm được. Muốn có thiện tri thức hợp tác, Phật dạy phải hành Bồ tát đạo, tu sáu pháp Ba la mật để kết thành quyến thuộc Bồ đề. Chúng ta gieo hạt Bồ đề bằng cách đến đâu, gặp ai, chỉ nghĩ làm gì cho họ an vui, giải thoát; đừng nghĩ họ làm gì cho ta. Mới quen mà nghĩ mượn tiền, xin tiền xây chùa, làm sao có quyến thuộc Bồ đề. Xin và nhờ vả là mang nợ, họ sẽ xem thường, tránh mặt ta. Tìm cách cứu giúp, họ trân trọng ta; không làm được như vậy thì không đến. Thiết nghĩ người tu ít nhất cũng có sự hiểu biết hơn người, để cho lời khuyên hợp lý, giúp họ an lành, khá giả. Tiến thân được, họ sẽ quý ta, trở thành quyến thuộc Bồ đề. Chúng ta không có của cải để cho, nhưng có sự hiểu biết giúp họ sống tốt, là sử dụng được vô số phương tiện huệ của Phật. Không phải gặp ai cũng khuyên đi tu, chỉ cho những gì mà người cần.

Lịch sử cho thấy những thời kỳ mà Phật giáo phát triển mạnh là nhờ các Thiền sư có sự hiểu biết rộng, giảng dạy và chăm lo cho cuộc sống người dân phát triển. Phải có thực tài đưa ra sự chỉ dẫn ứng dụng được vào cuộc sống. Còn chỉ dạy Phật pháp chung chung và từ bỏ cuộc đời này, họ không nghe. Dấn thân hành Bồ tát đạo, vào đời tìm người đồng hạnh đồng nguyện để kết bạn. Ta giúp họ, truyền trao sự hiểu biết cho họ và họ cũng giúp ta. Nhờ vậy, chúng ta có nhiều bạn và bạn này là bạn giỏi, bạn tốt.

Theo tôi, khi chưa có cơ sở, nên tìm chỗ nào cần, chúng ta đến giúp. Nhất là các giảng sư tương lai có điều kiện tốt mà không làm thì uổng. Vì các Thầy cô trụ trì không có điều kiện học và không thuyết giảng được. Ta tình nguyện đến giảng, cũng nhân đó rèn luyện khả năng mình. Hành đạo nơi xa, khó khổ, mới lên được. Có thể ở địa phương chỉ có năm, mười người về chùa tu Bát Quan Trai hay sám hối, chúng ta giảng cũng được. Đừng chờ người thỉnh mới giảng, phải tự đi tìm việc. Nhờ ta thuyết pháp mà chùa quy tụ được tín đồ đông thêm và có sức sống.

Tuy nhiên, một số Thầy phạm sai lầm, nghĩ sao nói vậy, đụng chạm đến quyền lợi hay pháp môn tu của người. Đến giảng ở chùa chuyên tu Tịnh độ, mà lại chê bai pháp môn niệm Phật, làm sao Trụ trì chấp nhận được. Hoặc sinh hoạt của chùa là cầu an, cầu siêu, giảng sư lại đả kích việc này, là sinh chuyện. Phải cân nhắc, dùng phương tiện huệ thấy được tâm tư, tình cảm của người và tùy theo đó mà triển khai giáo pháp, làm cho họ phát tâm tu. Luôn nhớ rằng chúng ta đến nơi nào là vì quyền lợi của nơi ấy, ta không có quyền lợi. Và nếu được Phật tử cúng dường, thì nên cúng lại vị Trụ trì số tiền này để lo cơm nước cho chúng. Làm vậy, chắc chắn vị Trụ trì vui. Nếu ông không nhận, anh em cũng nên cúng số tiền này vào thùng phước sương. Hành Bồ tátđạo, anh em từ chối quyền lợi, thì được cảm tình của quần chúng và Trụ trì. Hay dở chưa biết, nhưng không làm mất lòng họ và tạo được thiện cảm thì càng tốt.

Tôi kinh nghiệm đến một số nơi, thành công nhờ làm vậy. Đi giảng các chùa xa, tôi thường cho các Phật tử đi theo để họ cúng dường, bố thí. Phật tử đến nghe pháp, còn được tặng quà, họ mừng là phải. Chúng ta có bố thí, thì người giàu tìm đến để hỗ trợ và ta dùng của đó mà san sẻ cho người nghèo, để khuyên họ tu, họ mới nghe. Không giúp, thì khuyên cũng vô ích. Chúng ta phải là người hào phóng, mới hành Bồ tát đạo được. Ngoài ra, phải chịu cực, dấn thân, có thể tập hợp một vài người để nói chuyện đạo; người Nhật gọi là tọa đàm, pháp đàm. Giảng cho nhiều người, nhưng không ai phát tâm, chi bằng ngồi dưới bóng cây nói cho một người phát tâm còn tốt hơn. Hành đạo, đừng nghĩ là thuyết pháp, nhưng chủ yếu làm cho người phát tâm.

Pháp Tạng Bồ tát trải qua quá trình hành Bồ tát đạo, làm đủ hạnh Bồ tát, nhiếp hóa được tất cả chúng sanh hữu duyên mới thành Phật Di Đà. Phật Thích Ca cũng như chư Phật mười phương giống nhau ở điểm giáo hóa được chúng sanh hữu duyên; đó là thực tế không xa vời. Chư Phật đều thành tựu trọn vẹn Bồ tát hạnh, có quyến thuộc Bồ đề, nghĩa là những người cùng hạnh nguyện đều hiểu nhau, chấp nhận nhau, mới làm được việc lớn. Chúng ta không hiểu nhau, nên người này làm,người kia chống, thì không thể làm được việc lớn. Đưa ra mô hình gì, ai cũng chấp nhận, ủng hộ; đó chính là Tịnh độ. Từ mô hình lý tưởng có thể đưa về thực tế, tạo thành mô hình Cực lạc; trên bước đường tu, nếu có đủ điều kiện,chúng ta cũng xây dựng được Cực lạc là nghĩa này. Đối với tôi, quan trọng nhất, làm sao người hiểu tôi, chấp nhận tôi, là việc tiên quyết phải làm.

Khởi niệm tìm thiện tri thức, thì Di Đà gặp Bồ tát Quan Âm. Đức Quan Âm thương người ở Ta bà mới hội nhập Ta bà và ngài gặp Di Đà có hạnh nguyện cứu độ giống như ngài. Rõ ràng hai vị này gặp nhau ở mục tiêu cứu nhân độ thế, không có quyền lợi riêng tư nào, chỉ muốn giúp người an vui, giải thoát mà thôi. Đệ tử thứ nhất của Phật Di Đà là Quan Âm Bồ tát và người thứ hai là Đại Thế Chí Bồ tát, người thứ ba là Thường Tinh Tấn Bồ tát. Quả thật người cộng sự nồng cốttheo Di Đà toàn là người siêu tuyệt. Quan
Âm thì có tâm đại bi vô cùng đối với chúng sanh, Đại Thế Chí thì trí lực vô biên vượt trội hơn
mọi người, Thường Tinh Tấn thì làm việc không mệt mỏi. Tìm được người có lòng tốt, siêng năng, tài giỏi như vậy mới xây dựngđược Cực lạc; còn toàn là người dở, xấu và bệnh, thì làm được gì.

Bốn Thầy trò Di Đà về phương Tây xây dựng một trung tâm cách Ta bà mười muôn ức thế giới là An Dưỡng Quốc. Và các ngài trở lại Ta bà quán sát thấy Bồ tát nào gặp khó khăn, thì tạo điều kiện tốt cho họ tiến tu. Nhưng họ mệt mỏi thì các ngài đưa về An Dưỡng Quốc nghỉ dưỡng sức. Có bao nhiêu Bồ tát thoái chuyển ở Ta bà, Phật Di Đà đều đưa về An Dưỡng Quốc nuôi dưỡng cho lành mạnh xong, mới giao công việc du hóa mười phương, làm Phật sự để họ tạo công đức.

Đến chỗ mới, Đức Di Đà cho đào ao thất bảo, trồng cây báu thẳng hàng, v.v… Chỗ mới nên hoàn toàn làm mới. Xây dựng An Dưỡng Quốc rồi, Bồ tát mười phương đã biết Phật Di Đà và nghe danh Ngài; vì xưa Ngài đã từng đến giúp. Ngài đã hào phóng và rất giỏi, nên nghe vậy, tất cả Bồ tát mười phương tập trung về, phát triển An Dưỡng Quốc thành Cực lạc thế giới. Vì nơi nào có người giàu, giỏi, nơi đó phải thịnh vượng, an lạc. Nơi chỉ có nghèo đói, ngu dốt, bệnh hoạn, Cực lạc cũng trở thành Ta bà.

Anh em xây dựng thế giới Cực lạc chưa được, thì có thể xây dựng khuôn viên chùa theo Tịnh độ, có suối reo, chim hót, gió thổi, tác động cho Phật tử đến chùa phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Có điều đặc biệt không được quên là thế giới Cực lạc không có người nữ, vì có họ là sinh chuyện nữa. Mọi người vãng sanh đồng loạt từ Liên Hoa hóa sinh. Mô hình Cực lạc toàn nam giới, nhưng quan trọng là đồng hạnh nguyện.

Kinh Vô Lượng Thọ từ thời xa xưa đã vẽ được mô hình như vậy, quả thật tuyệt vời. Điều này gợi ý cho các anh em rằng học với tất cả Pháp sư, nhưng tâm đắc một pháp môn nào và biên soạn thành luận văn, làhướng sinh hoạt của riêng mình. Sau đó được Hội đồng Giám khảo giám định công trình nghiên cứu tốt, khả thi và cho tốt nghiệp. Có trong tay công trình, anh em tìm đến nơi nào thích hợp để xây dựng Cực lạc của chính mình.

Phật Di Đà tổng hợp mô hình của chư Phật mười phương và xây dựng thế giới Cực lạc của Ngài bằng bốn mươi tám lời nguyện. Có thể nói mô hình của Phật Di Đà rất gần với cuộc sống chúng ta ngày nay, không có gì xa lạ, viễn vông cả. Điều thứ nhất mà Đức Di Đà tiên quyết làm là ở thế giới Cực lạc của Ngài không có ba đường ác. Đối với tôi, điều này quan trọng, vì có ba đường ác thì không thể nào có Cực lạc. Ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súcsinh gồm những người phạm tội ngũ nghịch thập ác, phạm tội sát, đạo, dâm. Nếu chưa giáo dục họ trở thành người tốt, chắc chắn không thể có Tịnh độ.

Làm sao hiện tại không có ba đường ác và chết cũng không sinh vào ba đường ác. Đoạn nhân của ba đường ác bằng cách nào. Thế giới của Phật Di Đà không có bất cứ biểu tượng nào khiến cho người ta khởi niệm ác xấu, thì không thể đến với ba đường ác được. Ở Ta bà có nhiều hình ảnh bất công, khiến cho người ta nghĩ ác, mới đưa đến hành động ác và chịu quả báo xấu. Thí dụ người bị tù tội vì thấy việc bất công, mới khởi lên ý nghĩ thù hận, mới giết người và bị bắt ở tù. Nghĩa là có nhân và nghiệp nhân bị trần duyên xấu tác động. Phật Di Đà nói thế giới của Ngài không có bất cứ hiện tượng nào không tốt, nên người dân ở đó không bị tác ý xấu, không có ý thức về điều xấu ác, cả cái tên xấu ác còn không có. Thế giới của Ngài trong sạch đến như vậy. Nếu còn ba đường ác, thì Ngài nguyện không thành Phật.

Riêng đối với bản thân chúng ta, không phạm năm giới cấm và khuyên người không phạm năm giới cấm, là có Tịnh độ thứ nhất xuất hiện. Anh em xây dựng chùa, bắt chước Phật Di Đà, phải dứt khoát đưa chúng sanh ba đường ác đi chỗ khác; còn họ là còn rắc rối, không thể có Tịnh độ. Muốn có mô hình và lý tưởng như vậy, phải tìm bạn, kết bạn với người tốt. Chúng Hiền Thánh là cốt lõi để xây dựng Tịnh độ. Có những người bạn sống chết với ta, mới bắt đầu làm nên sự nghiệp. Chưa có bạn tốt hết lòng chung sức, thì làm gì cũng bị phá hỏng.

Có bạn và phải đào tạo họ trở thành người tốt. Xây dựng quốc gia là phải giáo dục con người trước. Theo Phật giáo, con người quyết định mọi việc thành bại. Con người văn minh mới có xã hội văn minh. Quá trình hành Bồ tát đạo, chủ yếu là xây dựng con người. Lo xây chùa, nhưng không có người tốt, chùa trở thành mối tranh chấp. Trái lại, có người tốt, chùa tự nhiên thành. Như tấm gương của các vị Tổ sư ngày xưa, trước tiên xây dựng con người. Chùa tốt hay xấu, lớn hay nhỏ là tùy ở người.

Trong các kinh, Phật thường đề cập đến Bồ tát quyến thuộc. Đó là những người đồng hạnh nguyện với ta, không đòi hỏi họ thông minh như ta, nhưng phải hết lòng với ta. Nếu không như vậy, mà họ có ý riêng thì anh em đừng mong làm việc lớn. Tôi làmđược một số việc cũng nhờ có những người dám sống chết với tôi. Đào tạo, un đúc, truyền trao kiến thức, kinh nghiệm cho họ. Dù mới họ còn dở, nhưng lần lần cũng làm được. Vì vậy, số người theo ta đông thêm và năng lực của họ phát triển. Một ngày, một buổi, không được; cần thời gian lâu dài, một kiếp này hay nhiều kiếp khác, như Phật Di Đà nguyện giáo hóa xong Bồ đề quyến thuộc, Ngài mới thành Vô thượng Đẳng giác. Hành Bồ tát đạo, mỗi ngày có nhiều người thương hơn thì làm được.

Nếu anh em nghĩ không chấp tướng, sống với lý Bát Nhã để cuối cùng không có gì, là sai lầm. Cần ý thức rằng việc gì cũng do chúng ta xây dựng. Người theo và sống chết với ta, vì ta đã từng cưu mang, giúp đỡ, chết sống với họ. Họ khó khổ, chúng ta sẵn lòng trợ giúp, thì ăn nên làm ra, họ mới nhớ chúng ta. Có giúp đỡ và giúp đúng người, họ trở thành bạn tri thức và nói rằng "Hòa thượng làm gì, cho con biết, để con đóng góp”. Ngược lại, chỉ lo quyên góp người quen để xây chùa, hoặc bố thí cho người lười biếng. Rồi lại tiếp tục kêu gọi đóng góp nữa, chắc chắn họ sẽ bỏ rơi chúng ta. Nhiều Phật tử nước ngoài nói với tôi rằng họ không dám đi chùa vì các Thầy xin tiền. Làm như vậy, bổn đạo mỗi ngày mất lần, người tốt với ta cũng sợ và xa lánh lần. Nhận thức rõ điều này, chúng ta không xin.

Hành Bồ tát đạo, tránh nhận của người và nên cho, thì quyến thuộc tăng thêm. Nhiều người sai lầm trên bước đường tu, mới hành đạo cũng có nhiều người thương quý, nhờ đã làm được một số việc công đức ở đời trước. Nhưng khai thác cạn kiệt tâm tốt của người, họ cũng không còn tốt với mình nữa. Nhiều Hòa thượng nói không muốn xây chùa, Phật tử lại đưa tiền xây dựng. Nay muốn xây, nhưng kêu gọi thì không ai đóng góp. Theo tôi, vì đã sử dụng hết công đức; dù chùa có xây được cũng bị chiến tranh phá hủy, là đã chuyển đổi công đức vô lậu thành hữu lậu.

Giáo hóa chúng sanh để tạo quyến thuộc Bồ đề. Người đến, ta nuôi dạy để nâng trình độ họ và họ giỏi tốt thì tùy theo đó giao việc. Anh em chưa có người giỏi tốt hợp tác, chưa làm được, dù có phước báu nhiều. Như Di Lặc Bồ tát phước báu lớn, xứng đáng làm Phật, nhưng không làm, vì quyến thuộc của Ngài chưa thuần thục. Nếu Ngài xuống Ta bà sớm, họ sẽ làm hư việc.

Giáo hóa chúng sanh là xây dựng Tịnh độ. Bước một, làm sao tất cả người theo ta không có trần lao nghiệp chướng, không còn tánh xấu. Và ta nâng trình độ của họ lên hàng Lục thông La hán để tất cả người này hiểu biết với nhau. Kinh nghiệm tôi thấy khó nhất việc này. Ta hiểu người thì dễ, làm cho người hiểu nhau, cảm thông với nhau, khó vô cùng.

Phật Di Đà có nguyện rằng ngươi dân ở Cực lạc phải có Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm thông, Thần túc thông, cho đến Lục thông. Lục thông là điều kiện tiên quyết để sen nở; chưa có đủ năng lực này, sen không nở. Nghĩa là Phật Di Đà đã có phương cách nuôi dưỡng và giáo dục người thành đạt như vậy; khả năng tối thiểu của người dân Cực lạc phải là A la hán. Ngài nâng cao trình độ của mọi người đến mức họ không thể nào phạm tội, mà luôn đóng góp được cho việc phát triển thế giới Cực lạc. Xây dựng một quốc gia kiểu mẫu từ thời xa xưa, Đức Phật đã nghĩ được những nét đặc sắc vô cùng như vậy. Ngày nay, chúng ta văn minh, nhưng chưa nghĩ được cách xây dựng căn bản từ tâm trí con người và chưa tạo được điều kiện cho môi trường và xã hội tốt đẹp.

Thần túc hiểu theo nghĩa hẹp là đi lại dễ dàng. Ngày nay. giao thông cũng được đặt lên hàng đầu. Ở những nước văn minh mới xây dựng được tiện nghi giao thông. Nước lạc hậu bắt chước thành lập nhà máy, nhưng sản xuất mà không có đường giao thông để chuyển hàng đi bán, cũng thất bại.

Thần thông biến hóa quan trọng, chỉ cho năng lực của con người, hiểu ở dạng khác là công xảo minh. Nước Cực lạc giàu mạnh, an vui, vì mọi người ở đó đều có khả năng siêu tuyệt, có thiện chí cao, có hiểu biết thượng hạng. Đó là phần căn bản mà Đức Phật Di Đà đã nghĩ cách xây dựng con người có năng lực thực sự. Trong quá trình hành Bồ tát đạo, Ngài đi khắp nơi, tìm bạn và giúp đỡ họ, tập trung họ lại để xây dựng mô hình Cực lạc.

Tha tâm thông nhằm chỉ mọi người sống với nhau phải hiểu nhau, tin nhau, mới hợp tác và phát triển được. Người ở Cực lạcgiáo hóa mười phương không thất bại; vì biết chúng sanh nghĩ gì, làm gì, theo đó dạy. Thực tế như anh em ở chung một tu viện nhỏ,nhưng hiểu nhau, dễ làm được việc. Mọi người tự thấy biết mình phải làm gì, không buồn giận nhau, cảm thông nhau, bảo vệ nhau. Muốn làm việc lớn phải thành tựu cách giáo dục như vậy. Họ còn tranh chấp với nhau thì sự nghiệp ta càng lớn, càng suy sụp mau. Chúng sanh còn tham sân si, ta có của báu nhiều, chúng sẽ tranh giành nhau. Chúng ta có Thánh tài vô tận, nên cất giữ; vì họ không thấy, không đòi hỏi. Xây dựng một tu viện mà người không hết lòng, tu viện cũng sụp đổ. Tôi thấy chỉ một mình Trụ trì lo kiếm tiền xây chùa và ngả bệnh chết; còn người khác thì thờ ơ. Đối với tôi, tu viện như vậy thì không nên xây. Khi làm, tất cả cùng làm. Ta làm, mà người khác không làm, chỉ mong hưởng thụ thì đừng làm, sẽ có tranh chấp lớn; vì như vậy, tất cả công đức Thánh tài vô tận, ta đã đổi thành hữu lậu cho họ tranh giành.

Kế đến là nâng Thiên nhãn, Thiên nhĩ cho quyến thuộc Bồ đề. Sự hiểu biết của mình đến đâu thì truyền trao đủ cho họ như vậy; vì một mình biết không thể làm được. Thế Tự Tại Vương Như Lai biết hai trăm mười ức Phật độ cũng dạy cho Di Đà biết như Ngài. Thiên nhĩ thông là nghe âm thanh mà biết được tâm trạng của chúng sanh buồn vui thế nào để giải trừ phiền não cho họ. Giáo hoa ở Cực lạc là nghe, hiểu và cảm thông, chứ không áp đặt như ở thế giới này. Tôi thấy có ông đạo mệt mỏi, buồn phiền, gặp nhiều khó khăn; nhưng Thầy không hiểu mà cứ la rầy là không chịu làm việc, lười tụng kinh. Thuở nhỏ tôi thấy ông đạo rất đáng thương, đóng chuông mà ngủ gục đến mức Thầy lấy dùi chuông đập vô đầu cũng vẫn ngủ. Học với Đức Di Đà, chúng ta xây dựng mô hình nhà truyền giáo biết được nơi cần đến, biết cách giáo hóa, biết người nào giáo hóa được, lúc nào nên làm gì, v.v…

Và người dân ở Cực lạc luôn thấy Phật mười phương, nghĩa là mỗi ngày luôn tăng tiến đạo Bồ đề, bằng cách quan sát chư Phật mười phương. Thế giới sống luôn có tiến bộ, nên học những điều mới thì thăng hoa, an vui thực sự. Còn cái vui nào không thay đổi, sẽ hết vui. Vui của Cực lạc luôn thay đổi, vì họ nắm bắt được văn minh tốt đẹp thực sự của Phật mười phương, không có phản ứng phụ xấu, không có mặt trái xấu. Phật Di Đà đã tạo được biết bao nhiêu công đức trong khi giáo hóa mười phương thế giới. Tất cả người tốt, gioi thượng thặng là Bồ tát Nhứt sanh bổ xứ đều quý mến Ngài, nên đều hết lòng hợp tác, khi Ngài xây dựng Cực lạc. Và khi xây dựng rồi, thì những người bạn này đã có thần thông, nên họ tự động bố trí người nào làm việc đó.

Phật Thích Ca nói rằng người ở Ta bà thuộc phạm vi hóa độ của Ngài và cũng có nhân duyên rất lớn với Phật Di Đà. Phật dạy rằng người tu phải thấy nhân duyên, theo nhân duyên mà hành đạo, thì được kết quả tốt đẹp. Thấy nhân duyên giữa ta và Đức Phật nào, nghĩa là thấy hạnh nguyện của vị Phật đó ta ưa thích, phát tâm làm theo hạnh của Ngài, mới nhận được lực hộ niệm của Ngài. Ngược lại, những vị Phật không có duyên với ta là không đồng hạnh nguyện, mà ta cầu xin, thì sẽ khó có kết quả. Thí dụ dễ hiểu như tôi chuyên nghiên cứu kinh và giảng dạy kinh điển. Hạnh nguyện của tôi như vậy, thì trường hạ nào muốn học, mời tôi, tôi sẵn sàng đến dạy họ tu học. Nhưng nơi nào làm những việc khác, mà tôi không có nhân duyên với pháp đó; tôi không đến. Hạnh nguyện giống, thì trợ lực nhau được. Phật Thích Ca dạy rằng chúng ta và Phật Di Đà có nhân duyên, nên chúng ta cầu nguyện, Ngài gia bị. Thật vậy,Phật Di Đà có bốn mươi tám lời nguyện và nguyện quan trọng là Ngài sẵn sàng tiếp độ người nào muốn thoát khỏi sanh tử, muốn vãng sanh về Cực lạc.

Qua kinh Di Đà, chúng ta thấy Đức Phật Thích Ca mở ra cánh cửa phương tiện khác nhằm chỉ chúng ta tu hành. Vì chỉ thẳng chúng ta để minh tâm kiến tánh thành Phật, rất khó. Một trăm người tu, không có một người thành Phật. Năng lực chúng ta như vầy, làm sao nắm bắt được chân lý. Điều kiệnsống với chân lý quá cao, đòi hỏi chúng ta phải sống gần kề chơn tánh; nói cách khác là phải có bản tánh thông minh tuyệt vời để ngộ được yếu tố Bồ đề, thành Phật, không đơn giản chút nào.

Tôi để ý tuy cùng học một trường lớp, có người tốt nghiệp xong, không làm được gì; vì khác nhau ở căn tánh. Người có căn tánh thông lợi, đã gần tới đạo, chỉ cần khai ngộ là gợi ý, thì họ thành Phật. Hàng thượng căn, thượng trí tu được như vậy.

Điều thứ hai, làm được việc là nhờ sức khỏe tốt và ngoại hình dễ coi. Đó là phước tướng chứng tỏ họ không có nghiệp. Trên bước đường tu, chúng sanh đa nghiệp khác với Bồ tát không có nghiệp, hay ba nghiệp thuần hòa. Chúng ta đủ thứ chuyện rắc rối, nên hiện tướng không tốt, thân thể bệnh hoạn, ngoại hình khó coi; tiêu chuẩn như vậy quả là khó đi lên. Đức Phật tu sáu năm thành đạo, vì Ngài đã có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp và có tướng trượng phu. Riêng các cô còn phải chuyển thân nữ thành thân nam, cơ thể phải tốt tiêu biểu cho phước.

Điều thứ ba để tu thành Phật là Bồ đề quyến thuộc rất quan trọng. Các vị Bồ tát đã trải qua vô số kiếp hành Bồ tát đạo, tạo được Bồ đề quyến thuộc rồi. Nghĩa là đã có người sống chết với Bồ tát, mới làm được việc lớn. Điển hình như hàng vua chúa, ngoại đạo, quốc sư, học giả, giàu có đều hết lòng với Phật. Bồ đề quyến thuộc là vậy, họ đã có quan hệ tâm linh với Phật từ nhiều đời. Quyến thuộc của chúng ta bị đủ thứ chuyện; chỉ lo giải quyết việc rắc rối của họ cũng đủ phiền, điều hợp họ cũng đủ mệt.

Bồ đề quyến thuộc thì đâu vào đó. Vì tất cả người đều hiểu nhau và tự tìm việc mà làm. Trong đại chúng, mỗi người một việc, kết hợp lại là thành công. Phật có một ngàn hai trăm năm mươi La hán, trong đó có mười vị đại đệ tử, mỗi người tiêu biểu cho một việc xuất sắc, tập hợp thành một giáo đoàn Thánh chúng đầy đủ đức hạnh và tri thức, nên có đủ khả năng thay Phật giáo hóa chúng sanh. Các Thầy cô làm đạo khó, vì Bồ đề quyến thuộc không có, hay quyến thuộc dữ, ác, tham thì còn mệt nữa. Quan sát thấy bạn bè, quyến thuộc của ta như vậy, tự biết con đường tiến tu đạo nghiệp của mình còn xa.

Bồ tát có Bồ đề quyến thuộc tốt và thấy tánh thành Phật. Tuy nhiên, số Bồ tát được như vậy không có nhiều. Vì vậy, Đức Phật mở cửa phương tiện để ai cũng tu được. Phật Thích Ca khẳng định rằng nếu đứng trên chơn tánh quan sát Ta bà, thấy không có sanh tử. Nhưng tất cả chúng sanh lại chấp sanh tử, chỉ thấy sanh tử và trôi lăn trong sanh tử, tự ràng buộc khổ đau. Tôi trải qua nhiều giai đoạn tu hành, chuyển đổi thân vật chất cho đến tâm thức, thể nghiệm được thực sự không có sanh tử khổ đau. Chỉ tại con người mang cặp kính nghiệp, tự thấy sanh tử khổ đau. Hễ biết dừng lại là thoát khổ. Tuy nhiên, điểm khó là chúng ta chỉ thấy được như vậy trong một niệm tâm thôi, không thể thấy vĩnh hằng. Một niệm chúng ta thấy an lành, nhưng một niệm bất giác khổ đau. Rõ ràng tôi có cảm giác đi ra đi vào sanh tử. Tôi chỉ ở bờ mé giải thoát, được một chút giải thoát, rồi cũng bị hoàn cảnh, vọng thức tác động làm thay đổi luôn.

Phật Thích Ca biết cái khó này của chúng sanh ở Ta bà, nên Ngài giới thiệu thế giới của Phật Di Đà cho chúng ta theo. Và Phật Di Đà cũng biết rõ như vậy, Ngài xây dựng một thế giới Cực lạc đặc biệt cho chúng ta dễ tu. Tôi để tâm suy nghĩ nhiều về pháp tu này. Ngày xưa nói Cực lạc, chúng ta khó tin, khó hiểu, khó chấp nhận. Vì thấy tu đơn giản mà được quá dễ, quá tốt. Làm đổ mồ hôi, sôi nước mắt, còn không có ăn. Sao Cực lạc sướng vậy. Nghe nói cũng muốn đi, nhưng không biết có thật hay không. Chỉ nhiếp tâm niệm mười tiếng A Di Đà Phật là được, thì chúng ta nửa tin, nửa ngờ. A Nan nói rằng mặt trăng nóng lên, mặt trời lạnh lại, Ngài vẫn tin lời Phật đúng hoàn toàn. Nhưng đối với chúng ta, thành thật mà nói thì còn nghi ngờ.

Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta kiểm chứng từng phần, thấy rõ Phật nói đúng; thế giới Cực lạc của Phật Di Đà có thật và có thể làm được. Thiết nghĩ ngày nay là thời văn minh khoa học mà còn làm được những việc xưa kia không thể nào tưởng nổi. Huống chi Phật còn siêu tuyệt hơn nhiều. Loài người xây dựng được thế giới văn minh, chúng ta so sánh thế giới văn minh với thế giới Cực lạc để hiểu cũng không khó. Thực tế cho thấy sự khác biệt rất xa giữa thế giới văn minh và thế giới chậm tiến, hay còn lạc hậu; tồi tệ nhất là thế giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ai tao nên những thế giới này. Những con người hung ác, tham lam, ích kỷ, thù hận, ngu si, lạc hậu, chậm tiến, thiếu đạo đức, thiếu hiểu biết, v.v… nói chung là mọi việc xấu đều phát xuất từ suy nghĩ xấu ác của con người, dẫn đến chiến tranh, giết hại nhau, phá hủy mọi thứ không khoan nhượng, làm cho nền kinh tế kiệt quệ, dân chúng lầm than, đói khổ cùng cực. Rõ ràng là con người tạo ra thế giới như vậy, chớ còn ai khác. Trên Tivi chúng ta thường thấy hình ảnh những thế giới lạc hậu, nghèo đói, chiến tranh, với các trẻ em và người lớn suy dinh dưỡng đến mức chỉ còn da bọc xương nằm bất động, trông rất tội nghiệp. Họ đói khát, đau đớn, sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, khiến chúng ta hình dung đến thế giới ngạ quỷ.

Từ nước chậm tiến phát triển thành văn minh, hai nước này cách nhau xa. Phi châu có nhiều mỏ vàng, than, kim cương; đáng lý phải giàu có, nhưng họ lại nghèo nhất, khổ nhất. Trong khi Nhật Bản không có tài nguyên thiên nhiên, chỉ là những hòn đảo nhỏ, chịu nhiều thiên tai, mà lại là nước giàu thứ hai trên thế giới. Họ giàu là nhờ sử dụng được trí tuệ của con người. Có thể nói nơi nào có trí tuệ, có đạo đức là văn minh. Và tiến đến đỉnh cao nhất của văn minh, hạnh phúc tuyệt đối, đó là thế giới Cực lạc với cuộc sống vui sướng cùng tột.

Trong kinh nói, Phật Di Đà làm giáo chủ thế giới này. Chúng sanh ở đó không biết khổ não, chỉ hưởng thú vui, cho đến cái tên địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh còn không có. Tất cả những tiện nghi tốt đẹp của thế giới Cực lạc có được là do trí sáng tạo của Phật Di Đà và do trí tuệ, công đức của Ngài cùng Thánh chúng xây dựng mà thành. Thế giới Cực lạc có đặc biệt là đất bằng phẳng. Người Nhật xây dựng thành phố Kyoto theo cách này, họ san bằng tất cả đồi núi và chia thành những con đường rộng lớn, thẳng hàng. Một ngàn năm trước, họ đã xây dựng mô hình Tịnh độ theo cách của Phật Di Đà.

Đất bằng phẳng, đường thẳng tắp, trồng cây thẳng hàng và ao sen thất bảo, v.v… là thiết kế của Tịnh độ Tây phương. Thời Phật xa xưa mà đã diễn tả Phật Di Đà xây dựng bảyhàng cây báu là những cây quý trồng ở Cực lạc. Ngày nay, chúng ta mới nhận thức được việc trồng cây để tạo môi trường xanh sạch đẹp. Vì cây có khả năng hút những khí độc để cho chúng ta khí trong lành. Hiện nay, rừng cây bị phá hủy nhiều, loài người đã gây ra sự mất cân bằng sinh thái, làm cho trái đất bị biến động, tầng ozone là lớp vỏ bảo vệ trái đất bị thủng, khiến những tia cực tím độc hại chiếu thẳng đến con người, gây ra nhiều bệnh tật không chữa được. Phá rừng cũng gây ra lụt lội và những làn khói độc hại dầy đặc trong không khí không được cây rừng lọc sạch, khiến cho môi trường sống của con người và muôn loài bị ô nhiễm nặng. Con người văn minh nhưng đạo đức lạc hậu, hay những con người thiếu hiểu biết đã biến đổi môi trường sinh thái trở thành tồi tệ như vậy.

Phật Di Đà tiếp độ người vãng sanh về thế giới Cực lạc, thì Ngài nghĩ ngay đến tạo ra một môi trường sống trong lành. Ở đó đất bằng lưu ly, nghĩa là đất sạch. Kế đến, Ngài cho trồng cây báu. Chẳng những trồng cây tạo bóng mát mà Ngài còn chọn cây tiết ra loại khí trong sạch, tiết ra mùi hương chống được ô nhiễm, để bảo đảm sức khỏe tốt cho cư dân ở Cực lạc tu hành. Ngoài ra, còn có bảy lớp lưới giăng. Theo tôi, ngày nay có thể hiểu là màng bảo vệ chống chất độc xâm nhập vô thế giới đó. Phật Di Đà đã nghĩ đến những việc mà chúng ta ngày nay mới biết. Tất cả những gì dơ bẩn không xâm hại Cực lạc được, đó là thế giới thuần khiết đủ đất sạch, không khí sạch, nước sạch, v.v… Thiết kế môi trường như vậy không phải để chơi, mà để bảo vệ môi trường sống an toàn tuyệt đối, chắc chắn sức khỏe người dân ở đó phải được tốt vô cùng.

Và tất cả loài chim như bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tần già, v.v… hiện hữu ở Cực lạc, đặc biệt nói được pháp Phật, giúp cho người dân phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Thiết nghĩ điều này vô cùng quan trọng. Chúng ta thấy rõ thế giới con người đương đại, nhất là những thế giới văn minh thường chiếu loại phim ảnh kích động tánh xấu của con người, bày ra những trò chơi làm cho họ bạo động, hung dữ, hoang dâm; nên tạo thành những con người hung ác, thích sát hại, tàn phá.

Thiết kế của Phật Di Đà hoàn toàn ngược lại, chỉ tác động tâm lý người dân nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng. Nghĩa là làm cho họ khởi ý niệm hướng thượng, mong muốn được như Phật Di Đà và Thánh chúng, biết tất cả việc chính xác và sống hòa hợp, thanh tịnh. Thiết đặt thế giới như vậy, tất cả cư dân ở Cực lạc luôn thăng hoa là tất yếu. Còn ở Ta bà thường nghe nhạc kích động, bạo lực, khiến người ta sa đọa. Ở Cực lạc, nghe âm thanh nào cũng phấn đấu đi lên. Tôi học ở Nhật cũng thấy được ý này. Sống với người có tri thức cao và môi trường sống tốt đẹp cũng tác động rất nhiều cho chúng ta nỗ lực học, để mong có được sự hiểu biết bằng với người. Niệm Tăng đối với tôi, là tranh thủ tình cảm của đại chúng trong chùa, trong Giáo hội, trong xã hội. Có nhiều người thương quý, mới hành Bồ tát đạo được.

Nếu chùa chúng ta bắt chước một phần của Đức Di Đà cũng xây dựng được một tiểu Cực lạc của chúng ta. Đầu tiên, quý vị Trụ trì nên nghĩ đến tạo môi trường sống bình an, tạo cảnh chùa nhẹ nhàng thanh thoát. Vào chùa mà không thấy nhẹ nhàng và tâm lý người ở đó không tốt, dễ sinh bệnh tật. Từ tiểu Cực lạc có được, chúng ta mới hướng tâm đến Cực lạc của Phật Di Đà.

Ở Cực lạc có tiếng chim nói pháp. Nó không nói gì khác ngoài Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề, Bát Thánh đạo. Nó không nói việc bạo động. Chim còn biết nói pháp, khuyên chúng ta tu hành. Còn chúng ta mà lại không biết nói pháp, không biết tu hay sao. Các loại chim này thực sự do Phật xếp đặt để thuyết pháp, nhắc nhở người dân Cực lạc đồng tu hành. Ngài thiết đặt pháp âm tác động vào lòng người như vậy.

Chùa chúng ta chưa thiết kế được như Ngài, cũng nên sắm Tivi, radio, đầu máy để mở băng giảng kinh cho đại chúng nghe, giúp họ luôn nghĩ đến pháp Phật. Tôi được như ngày nay cũng nhờ áp dụng phương pháp này. Tôi luôn nghe băng của các Hòa thượng giảng. Nay nghe một ít, mai một ít, lần thấm vô đầu, lúc nào trong tâm trí cũng có Phật pháp. Nghe đến độ không có người nói vẫn nghe, là nghe trong suy tư.

Nếu không tạo môi trường tốt để đại chúng cùng tu, thì cứ dụm năm dụm ba nói chuyện xấu, dẫn đến hoàn tục không xa. Chỉ nghe Phật pháp, quan trọng nhất là tạo được tầm nhìn của chúng ta về chân lý, về đạo rất quan trọng. Muốn như vậy, phải lắng nghe các bậc cao đức giảng dạy, đọc sách Thánh hiền. Không nghe, không đọc, không nhớ; chỉ nghe chuyện không tốt, chỉ nhớ chuyện cơm nước lặt vặt, uổng đời xuất gia. Theo kinh nghiệm của tôi, nghe pháp Phật tác động tâm trí chúng ta, tự nhiên chúng ta đi lên, thâm nhập thế giới Hiền Thánh. Đó là cách thiết đat mô hình chúng ta tu ở Ta bà.

Và ở Cực lạc cũng vậy. Gió nhẹ lay cành cây, mànglưới cũng tạo âm thanh vi diệu hơn cả nhạc trời. Chùa chúng ta cũng nên thiết đặt như thế. Các chùa Trung Hoa, Nhật Bản thường treo chuông gió, ngồi dưới bóng cây hay trong hiên chùa, gió thoảng, chuông vang, nhắc chúng ta niệm Phật, Pháp, Tăng. Một số chùa cũng làm chuông nước bằng ống tre. Thác đổ xuống ống tre đầy, chảy ra, tạo thành âm thanh như một bản nhạc. Mỗi ống tre có âm thanh khác nhau, nước rơi cho âm thanh kỳ diệu. Tôi nghe như vậy, thường nghĩ đến thế giới khác, bất chợt Cực lạc hiện ra, không phải lần chuỗi. Có thể thấy cảnh bên ngoài, hòn đá bên dòng suối, tiếng nước chảy, chuông ngân, chim hót, gió thoảng … đều là phương tiện tốt giúp chúng ta dễ hướng tâm đến thế giới chư Phật.

Ngoài ra, ở thế giới Cực lạc, từ khi mở mắt chào đời đến biết đi, biết nói, ngày đêm chỉ nghe nhạc trời, thấy hoa trời. Tai nghe, mắt thấy, là hai thứ giúp hành giả dễ thâm nhập Phật pháp nhất. Chư Thiên chỉ vui, không khổ; nên nhạc trời làm tâm hồn người ta vui, trong sáng. Hoa trời chỉ có hai loại. Một là hoa Mạn Đà La là hoa vô tâm. Thấy hoa này rơi, tâm trí chúng ta đứng yên, thanh tịnh, không bị việc tác động. Loại hoa thứ hai là hoa Mạn Thù Sa làm cho chúng ta vui. Người tu ngộ đạo có niềm vui kỳ diệu, phát xuất từ đáy lòng; vì nghe được nhạc trời, thấy được hoa trời, nghĩa là không bị ngoại duyên chi phối.

Sống được với nhạc trời và hoa trời, thì Phật khuyên hành giả ở Cực lạc cũng nên làm cho người khác được như vậy. Vì thế, hành giả ở Cực lạc chỉ làm một việc đơn giản là nhặt hoa trời, rồi dùng thần thông đi mười phương cúng dường hoa ấy; nghĩa là mang niềm vui và thanh tịnh cho người. Vì hành giả vui và thanh tịnh, người thấy hành giả cũng được vui và thanh tịnh theo. Ý này nhắc nhở chúng ta đến nơi nào thì phải làm cho nơi đó vui sướng, an lành, mới là Phật sự. Phật nói người xuất gia mà còn làm phiền não người khác, thì không phải là Sa môn. Đến giúp cho người được trong sáng, an lành là cúng dường Phật và xong việc này, phải quay trở về Cực lạc. Cách thiết kế của Phật Di Đà cho thấy mô hình của kinh áp dụng được vào đời sống thực tế rất đúng, từ việc đào tạo con người, cho đến xây dựng chùa chiền, thành phố tốt đẹp và quốc gia an vui.

Đào tạo xong những người đồng hạnh đồng nguyện với Đức Di Đà và xây dựng xong thế giới Cực lạc; tiếp theo, Ngài lo vấn đề tiếp cư. Không phải xây Cực lạc để Ngài an hưởng một mình; nhưng để tiếp độ chúng sanh về đây. Vấn đề vãng sanh còn nhiều tranh cãi, nhất là vấn đề đới nghiệp vãng sanh, ít người chấp nhận. Thử nghĩ người xấu thực, không ai chấp nhận khả năng của họ, mà đòi về Cực lạc, thì làm sao được. Thử nghĩ người ăn mày, người trốn nợ, người gây sự, kẻ giết người, nhưng niệm Phật mười tiếng, là vãng sanh được; e rằng chúng ta không thể thuyết phục người khác tin theo.

Tuy nhiên, tôi nghĩ nếu theo mô hình Đại thừa, tất cả mọi người đều tu được, thể hiện tinh thần xã hội hóa Phật giáo. Từ vua chúa cho đến người nghèo khổ nhất cũng tu được, là chủ yếu xây dựng tâm. Người nghèo, người giàu, người giỏi, người dở, người tốt, người xấu, v.v… cũng đều có một điểm tâm tốt. Vấn đề chính là phát huy tâm tốt này, thì vãng sanh được. Thực tế có những người nghèo, nhưng tánh tốt, dễ thương, cũng chấp nhận được và tôi nuôi dạy họ ở núi Thị Vãi; còn giàu mà ưa gây sự cũng không cho vô chúng.

Ngoài ra, còn có một điều nữa là sức cảm hóa. Một người tốt bình thường ở thế gian còn cảm hóa được người khác; huống chi là Phật Di Đà có vô lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng công đức, mà không cảm hóa được người hay sao.

Người xấu ác, nghèo khổ có nghiệp riêng của họ. Nếu chúng ta hiểu và thông cảm được, họ sẽ trở thành người tốt với ta. Đó là kinh nghiệm của tôi. Họ nói với tôi rằng "Con thương Thầy, vì không ai chấp nhận con. Chỉ có Thầy thương con!”. Chúng ta mở rộng vòng tay, cưu mang họ, tất nhiên chúng ta là nhất trên đời đối với họ. Có thương và giúp đỡ, họ mới nghe ta, nhân đó mới dạy được, chuyển đổi họ thành người tốt. Còn cải tạo mà chỉ dùng răn đe, trấn át, hình phạt, e rằng kết quả không được bao nhiêu. Quan trọng là phải có tấm lòng từ bi, thương người thực sự và cảm thông với hoàn cảnh xấu của họ, lần hồi mới chuyển hướng được họ theo con đường tốt.

Để vãng sanh về Cực lạc, có một điều kiện quan trọng là phải nhứt tâm bất loạn, chỉ nghĩ đến Phật Di Đà. Trong khi ở Ta bà tu với Đức Thích Ca đến trần thân, phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp, mới đắc được quả La hán và còn trải qua nhiều kiếp tu Bồ tát đạo, mới thành Phật. Đó là con đường tu của chúng ta, nay được mai mất, đi lên đi xuống thăng trầm không biết bao lần. Không biết tại sao về Cực lạc lại tu đơn giản như vậy. Chỉ nhiếp tâm niệm Phật Di Đà để sinh về thất bảo Liên trì, từ hoa sen nở ra là chứng được Vô sanh Pháp nhẫn. Thành phần được vãng sanh có đủ, từ Bồ tát Nhứt sanh bổ xứ, cho đến người thấp nhất trong xã hội đều được. Câu này đơn giản, nhưng ý nghĩa rất sâu.

Theo kinh nghiệm làm đạo của tôi, người hung dữ, hiền lành, giàu có hay nghèo khổ, không thành vấn đề. Chỉ cần họ quý mến, hết lòng với ta, thì độ họ dễ. Người không thương, không quý, nhưng ta muốn gần gũi họ là việc rất khó. Ngay như người hung dữ, nghèo khó, đôi khi họ bảo vệ, sống chết với ta hơn. Quan trọng là họ thương ta. Theo Đại thừa, cả Thiên long Bát bộ và theo Pháp Hoa thì cả La sát quỷ tử mẫu cũng theo giúp đỡ người trì kinh Pháp Hoa. Đụng việc, chúng ta mới thấy cần họ. Còn lựa người tốt, hiền thì đôi khi cọ xát với thực tế khó khăn, họ giống như đàn cừu non, không dùng được. Thiết nghĩ trên cuộc đời này, người nào cũng hữu dụng. Điển hình như Trần Hưng Đạo đã tuyển những tay cướp của giết người và huấn luyện họ trở thành người giết giặc rất thiện nghệ; vì họ mưu lược và gan dạ. Mọi người trong xã hội thuộc tầng lớp nào cũng hữu ích, nếu biết đặt họ đúng chỗ, giao đúng việc.

Có người nói rằng kinh Di Đà hay pháp niệm Phật chỉ dành cho hàng căn tánh thấp, không tu Thiền định được, không ngộ tánh thành Phật được; mới tu phương tiện này. Có thể khẳng định rằng lập luận này hoàn toàn sai lầm. Đức Phật Thích Ca xác định kinh Di Đà là Phật Sở Hộ Niệm kinh. Kinh Pháp Hoa cũng có tên là Phật Sở Hộ Niệm kinh. Kinh Di Đà và kinh Pháp Hoa là một, nhưng về phương tiện triển khai khác nhau. Cả hai kinh đều được Phật hộ niệm, đều là Nhứt thừa pháp, pháp tu để thành Phật. Như vậy, giáo lý Nhứt thừa của Phật không phải chỉ dành riêng cho người căn tánh thấp. Kinh của Phật đồng nhau, không có cao thấp. Nhưng cao thấp là do căn tánh của chúng sanh có cao thấp, nên ứng dụng khác nhau, đưa đến kết quả khác nhau. Vì vậy, đồng tu pháp môn niệm Phật, nhưng căn tánh của mọi người khác nhau; cho nên kinh nói rằng người vãng sanh về Cực lạc ở thứ bậc khác nhau, có hàng thượng phẩm thượng sanh cho đến hạ phẩm hạ sanh. Tu chung một pháp mà kết quả có chín bậc khác nhau. Giáo pháp Phật đặc biệt ở điểm đó.

Hàng thượng căn giải thoát là người căn tánh Đại thừa hành Bồ tát đạo, cao nhất trong Tam thừa giáo. Những người này đã đủ nhân cáchcon người và xuất gia tròn đủ hạnh xuất thế, có đủ tri thức và đạo đức xuất thế. Họ đã tạo được công đức quá lớn, là biểu tượng được trời người kính trọng. Vì vậy, đối với thượng căn Bồ tát, vãng sanh Cực lạc là việc đơn giản, không có vấn đề gì, nếu họ muốn. Trong kinhthường diễn tả rằng Bồ tát vãng lai Tịnh độ hay Ta bà hoàn toàn tự tại là thế. Tuy nhiên, tu Bồ tát đạo, nghiệp đã sạch, nhưng khôngnhân duyên với Cực lạc cũng không về Cực lạc được. Thí dụ trên thực tế, người không có tội lỗi,sức khỏe tốt, thông minh, tiền của đầy đủ; họ có điều kiện tốt như vậy muốn đi du lịch nước nào cũng dễ. Chỉ cần có thơ mời là đi được. Kinh nghiệm bản thân tôi thấy rõ, tôi làm thủ tục đi Mỹ thật đơn giản. Sáng 8 giờ nộp hộ chiếu, 2 giờ lấy Visa, vì tôi đã có đủ điều kiện cần thiết, chỉ bổ sung thơ mời của Hội đồng Tôn giáo thế giới là được. Tôi nghĩ vấn đề thượng phẩm thượng sanh cũng tương tự như vậy. Bồ tát đủ phước đức và trí tuệ, muốn về Cực lạc chỉ cần Phật Di Đà đưa tay tiếp đón, Bồ tát Đại Thế Chí đưa tòa sen vàng là xong.

Tại sao hàng Bồ tát lớn vãng sanh về Tịnh độ. Thế giới của Phật Di Đà là một xã hội có trình độ tiến bộ cao nhất. Trong kinh nói rằng Cực lạc dùng bảy báu kiến tạo hạ tầng, xây dựng lầu các gồm cả vàng bạc, mã não, san hô, hổ phách, v.v… Kiến trúc của một xã hội văn minh sang trọng như vậy, chứ còn gì. Cũng như thực tế chúng ta vào khách sạn năm sao thấy phòng ốc, cây cảnh, mọi tiện nghi tốt đẹp. Và người ở Cực lạc là các bậc thượng thiện nhân, vị lãnh đạo tối cao là Phật Di Đà có đầy đủ ba điều kiện tuyệt hảo là hiểu biết cao tột, sống lâu vô cùng và phước đức vô lượng.

Tất cả Bồ tát muốn vãng sanh Cực lạc, vì muốn tiếp cận các bậc thượng thiện nhân. Khi làm đạo, muốn sanh công đức, phải sống với người kém hơn mình; họ dở mình mới dạy được, họ nghèo mình mới có cơ hội giúp đỡ. Như vậy, cần có chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não và bản thân ta phải có năng lực, phải lăn xả vào việc cứu độ người, mới tạo được công đức. Người có khả năng vô giới hạn thì không kể. Nhưng đối với người mà khả năng có giới hạn, vấn đề bồi dưỡng rất cần thiết. Vì thế, trong chùa mới có ba tháng an cư để thúc liễm thân tâm, trau giồi giới đức.

Các Bồ tát lớn vãng sanh Cực lạc có thể tạm hiểu giống như chúng ta tập trung về chùa để an cư. Vì ở chùa riêng, phải làm việc; nay tập hợp lại để tu. Tôi có cảm giác về Cực lạc gặp các bậc thượng thiện nhân là Bồ tát giáo hóa mười phương, thì học được nhiều kinh nghiệm hành đạo của các ngài. Cực lạc của Phật Di Đà xây dựng có mục tiêu giống như chúng ta lập các tụ điểm cấm túc an cư. Nhưng có điểm khác biệt là Phật Di Đà lãnh đạo Cực lạc có đủ ba điều kiện toàn mỹ như vừa nói. Còn chúng ta an cư, thiếu người lãnh đạo như Đức Di Đà, nên việc làm của chúng ta không đạt yêu cầu như ở Tịnh độ của Ngài.

Bậc Bồ tát thượng thiện nhân sanh về Tịnh độ một cách đơn giản, nhưng cũng chia thành ba hạng. Hạng nhất là Bồ tát thân tâm hoàn toàn vô nhiễm, giáo hóa chúng sanh không bị ảnh hưởng xấu, nên về Cực lạc, thay Phật thì liền chứng Vô sanh Pháp nhẫn. Bồ tát hạng nhì, tâm không nhiễm, nhưng thân có ít nhiều chịu ảnh hưởng khi độ sanh. Vìthế, đem thân đặt ở Tịnh độ, chỉ cần một ngày một đêm là thanh tịnh, được Vô sanh Pháp nhẫn. Và hạng Bồ tát thứ ba chịu sự tác động của chúng sanh nhiều hơn, phải trải qua một tuần tu hành mới được như hai bậc Bồ tát trên.

Trên bước đường tu, tôi nhận ra ý này. Hàng thượng phẩm hạ sanh ví như chúng ta hành đạo một thời gian, mà an cư, cảm thấy lòng còn vướng mắc nhiều vấn đề. Phải mất một tuần lễ đầu không vào nề nếp được, nên thân tâm mệt mỏi, đau yếu. Nhưng qua một tuần, ta trở lại bình thường, tâm thanh tịnh. Hạng thượng phẩm trung sanh ví như mới vào an cư, còn quen sống tự do đi lại, nên thấy bị tù túng trong khuôn khổ. Tuy nhiên, tâm Bồ tát vô nhiễm, nhưng hành đạo Bồ tát, ít nhiều bị ảnh hưởng ngoại cuộc, thì chỉ sau một ngày một đêm, là quen với việc cấm túc an cư, xóa nghiệp liền. Hàng thượng phẩm thượng sanh dấn thân hành Bồ tát đạo thật vất vã. Nhưng họ đã hết nghiệp, tâm hoàn toàn trong sạch, nên về chùa an cư, tu hành được an lạc, giải thoát liền.

Đó là ba hàng Bồ tát giải thoát, giáo hóa độ sanh, khi tu Tịnh độ, về với Phật Di Đà rất đơn giản như vậy. Trong bản kinh Di Đa chữ Hán ghi rằng "Nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, … nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu …” Tại sao lại chia ra từ một ngày cho đến bảy ngày chuyên niệm Phật, nhứt tâm bất loạn. Điều này muốn chỉ rõ tùy theo từng người tu hành mà có nghiệp thân, nghiệp tâm khác nhau, nghiệp nhiễm nặng nhẹ khác nhau. Vì thế, khoảng thời gian để làm cho nhứt tâm bất loạn của mỗi người có khác nhau. Có người vừa niệm Phật là nhứt tâm bất loạn liền. Có người phải mất một ngày, hay hai ngày, ba ngày, hoặc bảy ngày mới thanh tịnh được.

Tôi dịch ý này rằng: "Nếu có người nghe được danh hiệu Phật Di Đà, sanh lòng khátngưỡng, nhớ nghĩ không quên, tâm trí lắng yên như vào Thiền định ….” Nghĩa là chỉ cho nhân duyên căn lành của chúng ta sẵn có, nên mới nghe danh hiệu Phật, độ cảm của chúng ta đối với Phật cao, giúp tâm lắng yên được. Thật vậy, những người tu lâu, tụng kinh Pháp Hoa, đắc Triền Đà la ni. Dù họ tụng kinh hay không, lời Phật vẫn luôn lảng vảng trong trí của họ. Tâm trí lắng yên, chỉ hiển hiện lời Phật. Nếu tu Tịnh độ, đạt niệm Phật Tam muội thì hình dáng của Phật Di Đà luôn hiện hữu trong tâm trí, họ chỉ thấy Phật Di Đà, không thấy gì khác. Được như vậy là điều kiện vãng sanh đã có. Quá trình tu từ một niệm tâm cho đến mười niệm tâm, hay từ một ngày cho đến bảy ngày là tùy theo trạng thái tâm của chúng ta thanh tịnh hay nhiễm ô đến mức độ nào.

Ngoài ra, hàng trung căn hay Nhị thừa chỉ cho người tu xuất thế như chúng ta cũng vãng sanh được. Người xuất gia chưa phát Bồ đề tâm, chưa cứu nhân độ thế, không làm phước cũng không làm tội. Người xuất giaphải là người vô thưởng vô phạt như thế. Chúng ta xuất gia chưa làm lợi ích cho đời, nhưng cũng không có lỗi lầm nào, cũng không bị luật pháp ràng buộc. Và chúng ta tự do rồi, phát tâm tu Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sanh, được xếp vào hàng trung phẩm. Bồ tát có đầy đủ điều kiện thuận tiện để vãng sanh như có sức khỏe tốt, thông minh, có Bồ đề quyến thuộc, có tiền của, đi đến mọi nơi được dễ dàng.

Riêng chúng ta là người không có lỗi lầm, nhưng thiếu những điều kiện cần thiết, là chưa tạo được công đức. Chúng ta nghĩ sang Tịnh độ dễ tạo công đức, ở đây hành Bồ tát đạo khó quá. Vì thế chúng ta cầu về Tịnh độ để tiến tu đạo nghiệp. Như vậy cũng vãng sanh được; nhưng vẫn có điều kiện mà kinh Pháp Hoa ví Thanh văn, Duyên giác là người chột, người què hay cùng tử trong phẩm Tín Giải. Các vị thượng căn là Bồ tát lớn, chúng ta là cùng tử thiếu điều kiện. Vì vậy, việc đi lại của chúng ta phải khác. Trong kinh Pháp Hoa bảo rằng việc chính của chúng ta là quét dọn phân nhơ. Nghĩa là trên bước đường tu, nếu khát ngưỡng Phật Di Đà, tha thiết muốn vãng sanh Cực lạc, phải đưa hình ảnh Phật vào tâm để tẩy rửa trần lao nghiệp chướng bằng cách niệm Phật, chỉ biết Phật, người xung quanh làm gì không bận tâm, thì vãng sanh được. Người mà tay lần chuỗi, miệng niệm Phật, mắt nhìn xung quanh, thấy bất bình thì la lên … không thể vãng sanh.

Đức Phật thọ ký cho cùng tử, vì cùng tử khác với người làm công hèn hạ. Người làm công hèn hạ làm ít đòi hưởng nhiều, chỉ nghĩ đến quyền lợi. Cùng tử thì không tham. Xuất gia, quý vị cố giữ nghèo mà không tham, không xin, không đòi hỏi gì. Tu hành có tâm như vậy là có điều kiện vãng sanh. Và về Tịnh độ, đã sạch nghiệp, nhưng công đức chưa sanh ra; chúng ta ở Tịnh độ cần một khoảng thời gian ở trong hoa sen tương đối dài để quan sát các Bồ tát khác hành đạo, chúng ta chưa được làm đạo. Kinh Pháp Hoa nói ý tương ưng là cùng tử được giao trông coi việc nhà và tiếp xúc với mọi người. Quan sát để tâm trí hạ liệt của chúng ta thay đổi thành tâm hồn rộng lớn như Bồ tát. Khoảng thời gian này, từ một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp.

Đến hàng căn tánh hạ liệt cực ác, nghiệp chướng trần lao còn nhiều, thì được hạ phẩm hạ sanh. Thậm chí người tội lỗi nhất, Phật nói rằng họ phạm cả tội ngũ nghịch thập ác phải đọa Vô gián địa ngục; nhưng nếu họ niệm Phật nhứt tâm cũng được vãng sanh. Họ vãng sanh bằng cách nào.

Cần nhớ rằng Bồ tát hoàn toàn không tội lỗi. Còn chúng ta tu hành, quên tội lỗi, không phải không có tội lỗi. Tạm thí dụ như người làm ăn thất bại trốn vô chùa tu. Thầy khuyên niệm Phật, đừng nhớ việc làm ăn, nợ nần. Nghiệp chướng trần lao có, nhưng tạm thời quên, lo niệm Phật, nhờ Phật cứu. Quên bằng cách không nghĩ, không tiếp xúc, chỉ nhớ Phật thôi; điều kiện vãng sanh là như vậy. Và lâm chung, Đại Thế Chí Bồ tát cũng phóng quang cho tòa sen, họ lên tòa sen thì sen búp lại liền. Ở trong sen của ao thất bảo của Phật Di Đà để ngấm lần nước Bát công đức, tẩy sạch trần tâm hoàn toàn thì sen mới nở. Vì người tội lỗi nhiều quá, dù trốn ở đâu, người ta cũng truy nã bắt nhốt. Ở thế giới Phật, để núp bóng Phật. Tôi nhớ chuyện Hòa thượng Thanh Chỉnh kể rằng chùa Bà Đá trước kia có ông cha cố lấy chùa này xây dựng nhà thờ. Nhưng khi Nhật đảo chính, ông này trốn vào chùa. Hòa thượng cho núp dưới bàn thờ Phật, nhờ đó mà thoát chết. Chúng ta vãng sanh Cực lạc cũng vậy. Vì hào quang của Phật, hay công đức của Ngài quá lớn bao phủ, nên chúng ta sống được. Có nghiệp nhiều mà ở ngoài thì chết. Nhờ núp bóng Phật nên được an lành, chúng ta được nghe pháp, tu hành, phước sanh ra thì sen nở. Cần ý thức rằng núp bóng Phật là nương Phật để thực sự tu hành cho đến khi hết nghiệp, phước sanh mới được trở thành người dân ở Cực lạc. Không phải núp bóng Phật để hưởng thụ và Phật cũng chẳng bao giờtiếp độ hạng người như vậy. Thật vậy, Đức Phật là bậc toàn giác, thấy biết chính xác, Ngài chỉ tiếp độ cho đới nghiệp vãng sanh những người tuy có phạm lỗi lầm, nhưng họ có tịnh nhân, nghĩa là người có tâm hối cải thực sự, có khả năng nương Phật để chuyển hóa xấu thành tốt.

Có thể thấy tất cả thành phần xã hội thuộc mọi trình độ đều tu Tịnh độ được, đều vãng sanh được. Các pháp khác thì có thể dành cho người tu thấp, hay tu cao. Tóm lại, Đức Phật chia ra ba hạng người vãng sanh. Hàng Bồ tát thượng căn mang phước lạc đến cho trần gian, luôn được chư Phật mười phương đón tiếp. Họ nghĩ đến nơi nào là nơi đó tiếp đón long trọng. Hàng trung căn cũng được đi chính thức về Tịnh độ, nhưng còn cần bổ sung một số điều kiện như trên đã nói. Và hạng thứ ba nghiệp chướng trần lao nặng cũng về Tịnh độ được, nhưng phải đi chui, trốn vô hoa sen, sen liền búp lại ngay; nếu không thì bị người nắm bắt, ở lại Ta bà.

Đặc biệt là những người đới nghiệp vãng sanh ở trong thai sen, đến khi sen nở ra, họ chỉ làm một việc là lấy túi đựng hoa trời, mang đi cúng dường chư Phật mười phương và quay về kinh hành. Điều này tôi cũng suy nghĩ. Tại sao Phật quy định giờ trưa phải về. Theo tôi, vì chúng ta chưa có kinh nghiệm, nếu ở lâu thế giới khác, e rằng chúng ta bị đọa. Giống như ở chùa cho phép chúng ta đi, nhưng không được đi ban đêm. Hoặc chùa quy định mùa an cư, các Thầy cô không đi quả đường bảy ngày là mất tuổi đạo. Phải cùng ăn chung, cùng kinh hành, cùng sách tấn nhau tu hành. Ở Ta bà đã vậy. Ở Tịnh độ cũng thế, đi đâu cũng nhằm làm cho người phát tâm và trở về kinh hành.

Nguyện thứ hai của Phật Di Đà la người tu với Ngài không sanh về thế giới có ba đường ác; vì cái nhân của ba đường ác không có. Thứ ba là mọi người trong nước của Ngài đều có thân kim sắc; nói cụ thể là thân thể họ tốt đẹp, không hoi dơ. Vàng là kim loại quý chỉ cho thân người ở Cực lạc quý như vàng, không phải thân họ là miếng vàng. Thứ tư là ngoại hình của người ở Cực lạc đều giống nhau, đều có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Đây là điểm đặc biệt của người dân ở Tây phương Cực lạc.

Đọc sách nói về sinh sản vô tính, một phát minh mới của y khoa ngày nay, tôi phát hiện ra được lý do tại sao ngoại hình của người dân ở Cực lạc đều giống hệt Phật Di Đà, đều có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp y như Ngài và tại sao họ tu hành một cách đơn giản, mà chứng được Vô sanh Pháp nhẫn một cách nhẹ nhàng, không cần phải tu ba a tăng kỳ kiếp như chúng ta. Bình thường phải có cha mẹ mới sanh con. Nhưng ngày nay, với cách sinh sản vô tính theo kỹ thuật nhân bản, chỉ cần có cha, không có mẹ, cũng sanh con được. Họ lấy gene của một người để tạo ra người thứ hai giống y hệt người của bản gốc.

Mọi người ở Ta bà do cha mẹ sanh, nên tánh tình, hình dáng không thể giống nhau. Phật nói rằng còn có sự khác biệt về hình tướng thì còn có vấn đề phát sanh. Từ bản gốc là Phật Di Đà nhân ra, nên ai sanh ở Cực lạc cũng giống y hệt Ngài. Ngày nay, luật pháp trên thế giới không cho phép sinh sản vô tính, vì sợ đứa bé mất tính người, hoặc sợ người ta sẽ nhân giống từ một người không có tình thương, thì nguy hiểm vô cùng. Ví dụ lấy gene của nhà độc tài Hitler để nhân bản sẽ sanh ra được Hitler thứ hai, độc ác, tội lỗi giống y như Hitler vậy.

Ở Ta bà, khoa học có thể tạo ra con người theo nhân bản được, nhưng không tạo được tâm tốt cho người đó. Ở Cực lạc thì không lo sợ như vậy, vì đối với thế giới Phật, vấn đề xây dựng tâm là chính, không phải xây dựng thân xác là chính. Tuy nhiên, về phần thân hay tâm cũng đều tốt đẹp, vì người sanh ra ở Cực lạc được nhân giống từ bản gốc là Phật Di Đà có trái tim từ ái trọn lành, có trí tuệ siêu tuyệt và khỏe mạnh vô cùng, tướng hảo như kim cương (Na la diên).

Cấu tạo từ tế bào gốc là Phật Di Đà trọn lành như vậy, nên mọi người sanh ra ở Cực lạc đều giống y hệt những điểm đặc sắc hoàn hảo của Phật Di Đà, là điều có thể hiểu được, làm được. Vì vậy, ở Cực lạc, không có người bệnh hoạn, xấu xí, tội lỗi, ngu dốt, khổ đau; nói chung mọi thứ xấu ác không thể hiện hữu trên thân tâm của người sanh ra ở Cực lạc.

Những người đới nghiệp vãng sanh thì thời gian sanh ra dài hay ngắn là tùy theo quá trình tu của họ để nghiệp sạch. Từ một ngày, hoặc mười ngày, cho đến mười kiếp; nói đúng hơn là bao giờ họ sạch tất cả nghiệp, tam thanh tịnh, thì mới được sanh ra. Phật Di Đà chuyển hóa thân tâm của mọi người một cách thánh thiện toàn vẹn, mới cho họ ra đời. Chưa trong sạch như vậy thì cứ ở yên trong hoa sen, không thể nào ra được. Chúng ta có thể tạm ví như người cai nghiện mà chưa hết nghiện, nếu cho họ về nhà là nghiện lại.

Phật Di Đà cho đới nghiệp vãng sanh những người có niềm tin, có duyên lành với Ngài. Họ chưa thực sự tốt, Ngài đưa họ về Tây phương xa quá, ma chướng không đến dụ dỗ được và cũng không vào ao thất bảo của Phật được. Bản thân của người đới nghiệp vãng sanh cũng không trốn ra khỏi ao thất bảo được; nói đúng hơn là họ cũng không có ý niệm trốn ra, cũng không đau khổ vì muốn về Ta bà.

Đức Phật Di Đà đặt mục tiêu sanh ra ở Cực lạc là mọi người phải giống nhau hoàn toàn, phải có thân hình quý như vàng. Ngài đặt kế hoạch sanh thế nào để được như vậy. Theo Phật Di Đà, thế giới Cực lạc không có người nữ, vì sanh từ nam nữ là ái kiến sanh ra, sẽ dẫn đến nghiệp sanh khởi và ba đường ác thành hình. Thế giới Ta bà có tứ sinh là noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh, mới tạo ra đủ thứ hình tướng với đủ thứ tâm tưởng, đủ thứ nghiệp xấu, nảy sanh vô số tội lỗi, đủ thứ chuyện rắc rối. Vì vậy, ở Cực lạc, Phật Di Đà chỉ dùng hóa sanh thôi. Đó là Liên Hoa hóa sanh, không phải từ cây cỏ, đất đá, vi trùng mà hóa sanh.

Với cách sinh sản vô tính ở Ta bà, người ta phải lấy gene đưa vô ống nghiệm. Nhưng ở Cực lạc, hoa sen ví như ống nghiệm. Lấy gene của Phật Di Đà tạo hình hài Bồ tát là có cha, không cần mẹ; nhưng thiếu linh hồn không được. Vì thế, cần có linh hồn của chúng ta để vãng sanh vô hoa sen. Ở Ta bà, linh hồn nào có tịnh nhân, thì được Phật Di Đà và Thánh chúng tiếp dẫn, liền sanh vô ao thất bảo. Vì tâm thức của chúng ta còn nhiều ô nhiễm của Ta bà, nên gọi là đới nghiệp vãng sanh. Vì vậy, về Cực lạc, tâm chúng ta chưa thanh tịnh, phải ở trong thai sen.

Phật Di Đà phải thiết đặt hệ thống Liên Hoa hóa sanh, không phải thai sanh, nên người ở Cực lạc có thân thể tinh khiết, vô nhiễm. Chúng ta từ ái kiến sanh ra, cònnhiễm trước, thì phiền não luôn phát sanh vô số. Để có được hệ thống sinh sản thuần tịnh, Ngài xây dựng Thất bảo Liên trì, trong đó có thiết đặt một cỗ máy đặc biệt là Ma ni bảo châu. Ma ni bảo châu sản xuất ra nước Bát công đức đểnuôi dưỡng tất cả thai sen trong ao thất bảo. Nhờ luôn được nuôi dưỡng bằng nước Bát công đức, nghĩa là tâm đại bi thuần tịnh của Phật Di Đà luôn truyền thẳng đến tâm của tất cả người đới nghiệp vãng sanh ở trong thai sen, nên trần tâmcủa họ được tẩy sạch hoàn toàn. TâmNgài luôn nuôi lớn tâm Bồ đề của họ, tác động cho họ được an lạc, thanh tịnh, luôn nghe pháp âm vi diệu. Đến khi chứng Vô sanh Pháp nhẫn là đã chuyển hóa từ thể xác đến tâm lý hoàn toàn tốt lành, thì họ sanh ra với đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, cùng sinh hoạt với Thánh chúng. Quả đó là một xã hội kiểu mẫu thật lý tưởng. Hiểu như vậy, chúng ta đọc kinh Di Đà, tu Tịnh độ, lần lần xã hội chúng ta sáng đẹp, tốt ra, không phải điêu tàn chờ chết.

Vì vậy, mô hình xây dựng Cực lạc là mọi người ở đây đều phải trong sạch, tinh khiết như hoa sen, không thể lôi thôi. Ở Ta bà không là Cực lạc nổi, thì Phật Thích Ca cũng đưa ra nguyên tắc Lục hòa để đại chúng sống được an ổn. Ta bà chỉ được đến như vậy mà thôi, Cực lạc thì hơn nhiều. Không thanh tịnh thì không sanh ở Cực lạc là sự thật mà Phật Di Đà đã quy định.

Thiết nghĩ ở ngay Ta bà, nếu chúng ta theo mô hình của Di Đà xâydựng, cũng sẽ được tốt đẹp. Nhiều chùa rơi vào tình trạng khổ sở vì dễ dãi, cửa chùa rộng mở, ai ở cũng được, thì những người xấu ác, ăn hại kéo tới, gây phiền hà cho đại chúng vô cùng. Ai cũng vô chùa ở được, chúng ta không quản lý nổi. Người Nhật tu Tịnh độ thể hiệntinh thần chọn lựa người theo Phật Di Đà. Ở Cực lạc toàn là thượng thiện nhân, tất yếu phải trở thành Tịnh độ. Muốn vào chùa Nhật tu, phải tốt nghiệp Đại học, chưa hoàn tất học vị tối thiểu là Cử nhân, không làm Thầy được. Tôi dự hội thảo ở Đại học Nanzan của Thiên Chúa giáo cũng thấy rõ những người tham dự ở Viện Nghiên cứu phải có Tiến sĩ, Thạc sĩ là thấp nhất; từ đây mới nâng lên được.

Tất cả người ở mười phương về Cực lạc phải do Phật Di Đà và các đại Bồ tát trực tiếp tuyển chọn. Đó là điều kiện vãng sanh, được Phật chọn thì lâm chung phải thấy Phật, Bồ tát chọn thì thấy Bồ tát; hoặc chỉ nhứt tâm nghĩ nhớ đến Phật và Bồ tát, không có một tạp niệm khác xen vào. Nếu khâu nhập vô không tốt, thì quản lý không thể tốt được, là cách xây dựng mô hình Tịnh độ rất thực tế. Con đường duy nhất vào ao thất bảo này có tính cách sửa đổi, chuyển hóa. Tâm thức chúng ta ở trong thai sen được nuôi lớn bằng tâm thánh thiện của Phật Di Đà, nên tâm chúng ta chuyển hóa lần theo tâm lượng đại bi vô cùng của Phật Di Đà. Còn nếu chúng ta ở trong thai mẹ, ta sẽ lớn lần theo tâm tánh phiền não của người mẹ.

Ở trong thai sen, chịu ảnh hưởng trực tiếp của Phật Di Đà, thì tâm Phật thế nào truyền như vậy cho ta. Nhờ vậy, mặc dù thân tâm chưa đủ hình hài, mà thai đã nghe pháp của Phật Di Đà. Ở đây luôn nghe pháp cho đến tâm hoàn toàn tinh khiết như hoa sen, thì hoa mới nở ra để trở thành công dân nước Cực lạc. Đó là cách nuôi dạy từ trong thai mà ngày nay, khoa học cũng chứng minh được sự ảnh hưởng tốt đẹp của nó. Hoa sen nở là sinh ra, có thân tâm giống hệt Phật Di Đà và môi trường sống là thầy bạn đều là thượng thiện nhân hoàn toàn tốt, giỏi. Sống với người tốt, hiền, giỏi, tự động ta cũng phải như vậy, không thể khác. Đưa trẻ vào môi trường xấu, sống với xã hội đen thì tim, máu và hành động của nó cũng lần hóa đen. Phật dạy chính hoàn cảnh thanh tịnh làm ta dễ thanh tịnh theo. Cũng vậy, một hành động xấu thực hiện được, ít nhất cũng phải có một người đồng tình.

Vãng sanh về Cực lạc, từ hoa sen hóa sanh có điểm đặc biệt là có sen xanh, vàng, đỏ, trắng. Ở Ta bà về đó, tùy theo nghiệp hay nguyện mà sanh vào bốn loại sen khác nhau. Bốn màu sen này tiêu biểu cho bốn tánh ở Tây phương, tương ưng với bốn nguyện của hành giả ở Ta bà. Màu xanh tiêu biểu cho Thiền định. Người tu tâm hồn hoàn toàn yên tĩnh, trụ trong Thiền định thì sanh vào hoa sen xanh. Có tình thương rộng lớn đối với chúng sanh thì sanh vào hoa sen vàng; màu vàng tiêu biểu cho từ bi. Màu đỏ tiêu biểu cho tinh tấn, nên người siêng năng tu hành, phục vụ đại chúng, thì về Cực lạc lên hoa sen đỏ. Ở Ta Bà tu hành không nhiễm trần, không quan tâm đến thế gian, thì vãng sanh vào hoa sen trắng; màu trắng tiêu biểu cho chánh niệm.

Bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng cũng tiêu biểu cho bốn tánh hay bốn nghiệp của chúng sanh ở Ta bà. Tánh của chúng ta ở Ta bà như thế nào thì sẽ vào hoa sen ở ao thất bảo tương ưng với màu đó. Thí dụ chúng ta còn nóng nảy, thì đới nghiệp vãng sanh về Cực lạc vô hoa sen đỏ; nhưng màu đỏ sân si được Di Đà huấn luyện, trở thành tinh tấn. Theo kinh nghiệm, tôi thấy người nóng nảy, bực tức, vì hoàn cảnh xảy ra không vừa ý muốn. Nhiều vị tu hành nóng nảy, vì muốn làm việc lớn, không được. Phật Di Đà biết rõ những người có ý chí, nên sẵn sàng chắp gối cho họ làm, truyền lực cho họ, thì tánh nóng này chuyển đổi thành tinh tấn, không ai làm bằng họ. Lịch sử cũng cho thấy Lý Công Uẩn rất thông minh và hiếu động, LýKhánh Vân chịu không nổi ông. Nhưng Vạn Hạnh rèn luyện ông trở thành minh quân. Biết và sử dụng đúng như Phật, như chư Tổ sư, thì người xấu cũng trở thành tốt; ngược lại, tốt cũng thành xấu. Nhiều cư sĩ, hay người mới phát tâm tu, nhưng gặp vị Thầy không biết tánh khí họ, không biết đào tạo, họ trở thành thất chí, hư hỏng.

Phật Di Đà chọn bốn màu, chúng ta thuộc nghiệp nào thì Ngài cho vô hoa sen thích hợp để chuyển hóa nghiệp xấu thành tốt. Ở Ta bà, tánh sân si bị môi trường xấu tác động thành tội lỗi. Nhưng về Cực lạc, người sân si, nghiệp chướng vô ao thất bảo uống nước Bát công đức, được nuôi lớn bằng cong đức, trí tuệ và thọ mạng của Phật Di Đà. Nói cách khác, môi trường tốt hoàn toàn của Cực lạc và lực tác động siêu tuyệt của Phật Di Đà và Thánh chúng đến mức chuyển hóa tánh xấu của họ trở thành hoàn toàn tốt đẹp.

Chư Phật mười phương Phật khen ngợi Đức Thích Ca đã làm được những việc khó làm, trong đời ngũ trược mà thành tựu Vô thượng Bồ đề quả là hy hữu. Chỉ có duy nhất Phật Thích Ca thành Phật trong hiện đời, phải đợi đến Hiền kiếp mới có Di Lặc thành Phật. Ở Ta bà thành Phật khó. Phật mới giới thiệu chúng ta thế giới Cực lạc làm trạm trung chuyển. Ở đó tu lên dễ hơn ở đây. Vì vậy, pháp môn này thịnh hành ở nước ta và thích hợp với chúng ta về việc cầu nguyện. Theo kinh nghiệm riêng tôi, tự phấn đấu đi lên tuy khó, mà còn làm được. Nhưng tạo điều kiện cho người khác tu mới khó và đối với người chết, còn khó hơn.

Với người chết, tôi tụng kinh Di Đà và khuyên họ niệm Phật Di Đà; vì họ chỉ còn có linh hồn, khuyên họ nghĩ đến Phật, để được Phật tiếp độ. Còn việc dùng thần thông hay Thiền định để mong đưa linh hồn họ đi lên cõi tốt đẹp hơn, e rằng không được. Nhất là chúng ta chỉ là phàm Tăng, thiết nghĩ việc tụng kinh cầu siêu dễ thích hợp. Ngoài lễ Trai tăng cúng dường cầu phước, còn việc tụng kinh Di Đà cầu siêu làphương cách mà chúng ta giới thiệu cho họ thế giới Cực lạc của Phật Di Đà và điều kiện vãng sanh. Như vậy, người sống cũng nhưlinh thức của người chết nghe và cảm tâm với Phật Di Đà, nghĩ về Ngài, đồng thời chúng ta niệm Phật trợ lực cho họ vãng sanh.

Tóm lại, Đức Phật Thích Ca đưa ra biểu tượng hoa sen ở Ta bà chính là Ngài và biểu tượng ở thế giới Cực lạc là Phật Di Đà. Hai biểu tượng này tuy khác nhau về hình thức, nhưng tâm giống nhau hoàn toàn; vì tâm của Đức Phật Thích Ca và Phật Di Đà đều là Ma ni bảo châu. Nhưng hiện thân ở Cực lạc là thế giới khác với Ta bà thì Di Đà phải xây dựng con người theo phương cách khác, tu cách khác.

Qua phần trình bày trên, cho thấy cách tu của Phật Di Đà có tổ chức quy cũ hẳn hòi. Đặc biệt là không phải về Cực lạc rồi ở luôn đó, không biết gì. Thí dụ như người sống trong tu viện đóng kín không biết sự việc xung quanh cũng hỏng; vì làm như vậy, chưa thành Phật, mà trở thành người vô dụng.

Đức Phật Di Đà sắp xếp cho các hành giả tu hành ở Cực lạc, nhưng cũng đến nơi khác hành đạo, giáo hóa để mở rộng tầm hiểu biết. Đặc biệt hơn nữa, người ở Cực lạc qua Ta bà làm đạo, không bị nhiễm trần. Tất cả Bồ tát ở Cực lạc đi giáo hóa chúng sanh khắp nơi, cũng trở về Cực lạc, vì thế giới đó tốt đẹp hơn hết. Đó là phương cách mà Phật Di Đà thiết đặt thế giới Cực lạc để Thánh chúng tu nhân và phát triển công đức cho đến đạt được quả vị Vô thượng giác.

Thiết nghĩ thế giới Cực lạc của Phật Di Đà là mô hình sống thật lý tưởng mà chúng ta có thể noi theo để xây dựng cho chính mình và Bồ đề quyến thuộc một tiểu Cực lạc ở ngay nhân gian này, trên bước đường thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh.