Sách
Chúng ta đã bước vào thế kỷ XXI và điểm lại những sự kiện của thế kỷ XX vừa mới đi qua, có thể thấy rõ, nhiều thành quả lớn lao đã thể hiện sự phát triển các hoạt động một cách vượt bậc của nhân loại về phương diện kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật, v.v… Sự văn minh tiến bộ trên nhiều lãnh vực đã giúp cho cuộc sống vật chất của con người hiện đại được nhiều tiện nghi đáng kể. Tuy nhiên, khi con người chạy theo nhịp tăng tốc của phát triển văn minh vật chất, lo xây dựng cuộc sống vật chất cho cá nhân, nên tình người bị giết chết. Tình thân giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy trò, giữa con người với xã hội trở thành thứ yếu, thậm chí vô nghĩa. Đó cũng là đầu mối phát sanh nhiều tệ nạn xã hội, hoặc tạo ra những hội chứng bệnh hoạn tâm lý kỳ quặc.
Có thể nói bên cạnh những tiến bộ phi thường mà con người rất tự hào, thế giới hôm nay đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, một sự khủng hoảng đang diễn tiến rất nhanh so với những điều tốt đẹp mà sự tiến bộ vật chất đã mang đến cho con người trong những thập niên qua. Những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng ấy chính là sự đối nghịch về các hệ thống giá trị, khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân tự tôn, đố kỵ, hận thù, hiểu lầm, mâu thuẫn, v.v... Ngoài ra, sự không cân đối về quyền hạn cạnh tranh kinh tế thị trường, quyền được kiểm soát các vùng… cũng đã tạo ra tình trạng khủng bố và thống trị lẫn nhau giữa các phe nhóm, sắc tộc và tôn giáo, khu vực và quốc gia. Tất cả những thảm cảnh trên đều thể hiện lòng tham lam không đáy và sự sân hận vô cùng của con người, tham lam quyền lực, mưu đồ thống trị, vơ vét lợi nhuận về cho cá nhân, cho tổ chức, cho phe nhóm.
Để có giải pháp thỏa đáng cho những vấn nạn như khủng bố, kỳ thị, phá hại, chiến tranh, môi trường, bệnh tật, nghèo đói, v.v... đang bức bách nhân loại trên toàn cầu, thiết nghĩ không gì tốt đẹp hơn là thực hiện tinh thần Phật dạy. Thật vậy, tinh thần căn bản của Phật dạy rằng mọi việc làm đều vì sự an lạc, hạnh phúc chung của loài người, không kỳ thị quốc gia, tôn giáo, sắc tộc…; điều đó mới có thể hóa giải tình trạng bất an của con người hiện nay và đem đến sự bình an cho thế hệ tương lai.
Ngày nay, trong một cộng đồng thế giới đa sắc tộc, đa tôn giáo, đa văn hóa, văn minh, những bản sắc riêng biệt cần được tôn trọng trong sự giao lưu, hội nhập đa phương. Muốn thể hiện sự hiểu biết và tôn trọng như vậy, đòi hỏi con người phải sáng suốt, khoan dung và từ bi. Lịch sử truyền bá Phật giáo trải qua năm châu bốn biển trong suốt chiều dài hơn hai mươi lăm thế kỷ đã thể hiện sâu sắc ba đặc tính là sáng suốt, khoan dung và từ bi. Trong kinh điển Phật giáo, không hề có chỗ cho sự xung đột trong tư duy hay trong hành động, thậm chí đối với sự chống đối, phá hại của những người cuồng tín thuộc tôn giáo khác. Và trên lộ trình giáo hóa độ sanh, Đức Phật cùng giáo đoàn của Ngài đến bất cứ nơi nào, đều là tấm gương điển hình cao quý nhất, vận dụng tinh thần từ bi, đoàn kết, hòa hợp, tôn trọng sự thật, để chuyển hóa mọi người đi theo con đường thánh thiện.
Sự hiện hữu và những ảnh hưởng tốt đẹp của đạo Phật trên thế gian này trải qua hơn hai ngàn năm trăm năm đã là sự khẳng định đúng đắn rằng Phật giáo chính là chất liệu nuôi dưỡng và duy trì đời sống hòa bình, an lạc, phát triển và thăng hoa tâm linh cho nhân loại. Có thể nói Phật giáo hôm nay đáp ứng cho con người ở thời đại mới một nhu cầu tâm linh mới, chẳng những không bị giáo điều ràng buộc, mà luôn giúp cho tinh thần con người luôn được vững chãi trước mọi đổi thay của nhịp sống mất phương hướng trong vòng xoáy của nền văn minh vật chất hiện đại.
Thật vậy, tinh thần Phật giáo hiện nay chính là thái độ sống nhập thế tích cực theo hướng chuyển hóa tư duy và hành động của con người trở thành cao thượng, vì nhân sinh, vì sự phát triển an bình cho xã hội, cho cộng đồng nhân loại, cho ngôi nhà chung toàn cầu. Đạo Phật đi vào đời bằng rất nhiều phương tiện khác nhau, nhưng luôn hài hòa và thích nghi theo từng quốc gia, từng phong tục tập quán địa phương, giúp cho con người nhận chân được thế nào là cuộc sống có ý nghĩa, hiểu được mối tương quan tồn tại mật thiết giữa mình với tha nhân, với cuộc đời, với muôn loài, để từ đó xây dựng nếp sống lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả các loài hữu tình và vô tình trên trái đất này.
Chính vì muốn phục vụ lợi lạc cho số đông người, Đức Phật đã sử dụng rất nhiều pháp phương tiện, thường được tượng trưng bằng con số tám mươi bốn ngàn. Vì là giáo pháp ứng cảm tùy cơ, nên pháp Phật đã mang đến lợi ích tuyệt đối cho từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh, từng trình độ khác nhau. Có thể khẳng định rằng từ những lời dạy thực tế bình dị phù hợp với trình độ phổ thông quần chúng, cho đến những nguyên lý cao siêu thích ứng với thành phần thượng tầng kiến trúc của xã hội, tất cả pháp Phật dạy đều nhằm vạch ra cho mọi người một nhân sinh quan hướng thiện, hướng thượng, từ đó giải quyết được mọi bức bách trong cuộc sống con người ở bất cứ thời đại nào.
Con người ở thời Phật tại thế cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm và con người thời hiện đại đều có những nỗi khổ chung về vật chất và tinh thần của kiếp người; nếu không muốn nói là con người thời nay gánh chịu nhiều khổ đau hơn, vì ngoài một số dữ kiện khách quan thì nguyên nhân chính yếu gây ra tình trạng bất an bắt nguồn từ "Tâm”, tâm tham lam vô hạn, tâm sân hận vô cùng và tâm mê muội của chính con người. Yếu nghĩa này đã được Đức Phật tóm gọn trong một câu của kinh Hoa Nghiêm "Muôn pháp duy tâm tạo”. Và kinh Pháp Cú cũng dạy rằng: "Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ tạo tác. Nếu nói hay hành động. Với tâm niệm bất tịnh. Khổ não liền theo sau. Như xe theo bò vậy. Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ tạo tác. Nếu nói hay hành động. Với tâm niệm thanh tịnh. An lạc liền theo sau. Như bóng chẳng rời hình.”
Như vậy, mọi việc được tốt đẹp an vui, hay xấu xa đau khổ, đều là kết quả của sự sai sử, quyết định từ tâm thiện hay tâm bất thiện của con người. Việc gieo trồng, nuôi dưỡng và thể hiện những tâm tốt lành cho mình và cho mọi người trong cuộc sống hàng ngày được nhắc nhở rất nhiều trong các kinh điển Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Tuy nhiên, trong các pháp nói về tâm, nổi bật hơn cả đối với cả hai hệ thống Nam truyền và Bắc truyền Phật giáo là giáo pháp Tứ Vô lượng tâm. Pháp Tứ Vô lượng tâm được Đức Phật nhắc đến rất nhiều và đó cũng là pháp hành của tất cả các vị Đại Bồ tát sử dụng để cảm hóa chúng sanh, là hạt nhân tất yếu mà Bồ tát cần thành tựu để tiến đến quả vị Phật, là pháp hành của các vị Thanh văn thể nghiệm để thanh tịnh hóa tâm mình, tạo được cuộc sống an lạc, giải thoát cho bản thân.
Và hiện nay, pháp Tứ Vô lượng tâm cũng được nhiều Tăng Ni, Phật tử ở khắp năm châu dù theo Thiền tông, hay Mật tông, Tịnh độ tông… đều thể nghiệm trên bước đường đi theo dấu chân Phật. Đặc biệt là pháp Tứ Vô lượng tâm có giá trị rất lớn, có công năng giải quyết ổn thỏa nhiều vấn đề bức xúc nhân loại hiện nay. Trên danh tự, bốn pháp vô lượng là tâm từ, tâm bi, tâm hoan hỷ (khoan dung) và tâm xả, nghe có vẻ đơn giản; nhưng sự thật nếu thực hiện được tinh ba của pháp này, thì thực trạng bất an của con người và xã hội sớm được giải quyết.
Các nhóm khủng bố, những cuộc xung đột giữa các phe nhóm, các vụ bạo động vũ lực giữa các nhóm tôn giáo đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới phần nhiều phát xuất từ tâm tham sân si, nên trở thành cố chấp, Phật giáo gọi là kiến thủ, dẫn đến những hành động không tôn trọng, mà còn thẳng tay tàn phá những ai mang sắc thái khác biệt với họ. Nói cách khác, chính vì không được thấm nhuần những đức tính tích cực của tâm từ bi, tâm hoan hỷ và tâm xả mà người ta gây ra những việc làm tội lỗi.
Phật giáo hướng dẫn con người thể hiện nếp sống vị tha, nếu không mang an lạc cho người thì cũng không được phép làm cho người đau khổ. Vì thế, tâm từ bi là tâm dẫn đầu, quan trọng nhất. Có tâm từ bi chỉ đạo, người ta biết quan tâm và chia sẻ nỗi đau của người khác. Không có tâm từ bi, hành động dễ bị sự ích kỷ, toan tính ác hại lôi cuốn.
Tinh thần từ bi, hỷ xả đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các tổ chức, giữa các quốc gia; đó là sự tôn trọng mọi hình thái khác biệt, hoan hỷ đối thoại và chấp nhận sự sai khác của nhau để cùng tìm ra một hướng đi chung, củng cố thêm mối quan hệ hỗ tương được lâu dài, cùng được hưởng sự lợi lạc.
Đức Phật khi giáo hóa chúng sanh, đối diện với những người không cùng quan điểm, Ngài không bao giờ dùng quyền lực để áp đặt buộc người nghe theo. Trái lại, mặc dù là bậc Thiên nhơn Sư, Đức Phật vẫn luôn tôn trọng, lắng nghe và nhẹ nhàng giảng giải cho mọi người thông hiểu được việc nên làm, điều nên tránh: "Ta chủ trương phân tích. Ta không chủ trương nói một chiều” (Kinh Subha số 99). Đó là phương cách tốt nhất để có được sự hiểu biết tốt đẹp cho các mối quan hệ trong xã hội hay trong bang giao quốc tế.
Theo Phật giáo, dùng tâm sân hận để hành động trả thù không thể giải quyết vấn đề khủng hoảng, mà còn làm tăng thêm tình trạng bất an, lo sợ và gây thêm nhiều thảm họa nữa. Tình trạng khủng bố đang diễn ra kéo theo những cuộc chiến sa lầy, gây chết chóc, sợ hãi, khổ đau cho nhiều người hiện nay. Thảm họa này một lần nữa chứng minh cho mọi người nhận ra giá trị hằng hữu của lời Phật dạy rằng hận thù không thể dập tắt hận thù, chỉ có tâm từ bi mới hóa giải được mọi hận thù.
Ngoài ra, trong cuộc sống hiện đại, mối quan hệ hỗ tương (inter-relationship) mật thiết chẳng những giữa con người với con người, mà với các loài khác và với môi trường sinh thái rất quan trọng. Vì thế, môi trường sinh thái trên trái đất là một trong những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của loài người hiện nay. Mối quan tâm ấy được thể hiện qua Ngày Môi trường thế giới, ngày 5 tháng 6 năm 1966. Tất cả khoa học gia trong mọi lãnh vực, các kinh tế gia, triết gia, các nhà nghiên cứu, báo chí, đài truyền thanh, truyền hình, v.v… đều phân tích và báo động về sự tác hại nghiêm trọng của các độc tố gây ra cho môi trường sống của loài người, loài vật, cỏ cây. Nói chung, sức khỏe và mạng sống của mọi sinh loại trên địa cầu này đang bị chính con người đầu độc, giết hại. Mối nguy cơ đe dọa đến hệ sinh thái không phải nhỏ, từ đó nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa hoặc hạn chế bớt sự ô nhiễm được đề ra, mang tính cách toàn cầu, trong đó có mười Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
Ý thức cần bảo vệ sự sống và môi trường sinh thái mới được thế giới báo động trong những năm gần đây; nhưng đối với Phật giáo, đó là một điều luật căn bản mà Đức Phật đã đặt ra từ hai mươi lăm thế kỷ trước cho hàng đệ tử phải tuân thủ. Đức Phật dạy những ai muốn đi cùng lộ trình như Ngài, nhất định phải thể hiện tâm từ bi. Chẳng những không được sát hại, phải tôn trọng sự sống của loài người, loài vật, cho đến cỏ cây, mà còn phải bảo vệ tất cả muôn loài. Với trí giác toàn hảo của Đức Phật, Ngài thấy muôn loài trong vũ trụ đều đồng nhau ở dạng thể tánh và trên hiện tượng giới, sự sống muôn vật cùng cộng hưởng, cộng tồn, không thể tách rời. Mối tương quan tương duyên chằng chịt, mật thiết giữa muôn sự, muôn vật trong vũ trụ đã được kinh Hoa Nghiêm nêu ra rằng cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt. Vì thế, làm hại người khác, làm hại các loài khác, là làm hại chính mình.
Thế nhưng, con người ngày nay tự cho rằng mình khôn ngoan nhất trong các loài, lại sử dụng trí khôn một cách sai lầm và vị kỷ để hủy diệt các loài khác, tàn phá núi rừng, khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, v.v…, để rồi cuối cùng tàn phá môi trường sống của chính mình. Tất cả mọi sự hư hỏng, tan nát làm hại cho môi trường sinh thái đến mức báo động đỏ, thực sự đều phát xuất từ tâm niệm ác xấu, trục lợi quá mức của con người. Trong khi loài thú bị xem là hạ đẳng, dù dữ như cọp, sói sống với thiên nhiên, nhưng chúng nào có tàn phá thiên nhiên. Chỉ có loài người hủy hoại trái đất này nhiều nhất.
Môi trường bên ngoài ô nhiễm trầm trọng chính vì môi trường trong tâm con người hư hỏng nặng nề. Lòng tham không đáy đã thúc đẩy con người đòi hỏi sự hưởng thụ vượt quá những nhu cầu cần thiết và kéo họ lao vào những cuộc tranh giành bất tận, đưa đến tiêu diệt lẫn nhau và phá hư môi trường sống.
Không tham lam, xấu ác, người thể nghiệm giáo pháp Phật sống thiểu dục, tri túc. Cách sống thiểu dục, tri túc không có nghĩa là sống hèn hạ, an phận, thiếu hiểu biết, thiếu nỗ lực vươn đến sự phát triển; trái lại, đó là cách sống sáng suốt và cao thượng, hạn chế lòng vị kỷ, sống hài hòa với thiên nhiên, không làm hư môi sinh, vì nhận biết được những gì nên khai thác và khai thác đến mức độ nào, những gì cần bảo vệ để cho con em thế hệ kế tiếp của chúng ta khai thác. Ngược lại, tham muốn quá nhiều gom về cho cá nhân hay phe nhóm, khiến con người trở thành mù quáng, tàn bạo một cách phi lý. Họ sẵn sàng giao chiến, gây chết chóc, bệnh tật, nghèo đói, tiêu hủy mầm sống của các loài, khiến cho môi sinh trên quả địa cầu ngày càng xấu thêm. Hoặc bằng mọi cách, họ chiếm cho được món lợi khổng lồ, không quan tâm, hay không biết đến sự tác hại của việc khai thác bừa bãi, làm cạn kiệt tài nguyên, xả những chất độc hại vào không khí, vào dòng nước, vào lòng đất, làm ô nhiễm môi sinh, mất cân bằng sinh thái.
Thể hiện rõ nét sự sống hài hòa với thiên nhiên, các ngôi chùa thường được xây dựng trên đồi núi hoặc trong khu rừng. Và quan trọng hơn nữa, trong thời buổi mà rừng bị con người tàn phá không thương tiếc, thì hiện nay nhà chùa đang đóng vai trò tích cực trong viêc việc gìn giữ, bảo hộ rừng và trồng rừng một cách tốt đẹp. Cảnh trí của nhiều ngôi chùa ở một số quốc gia cũng như ở đất nước Việt Nam chúng tôi, với rừng cây thiên nhiên, núi non tươi tốt, ao hồ trong sạch, không khí trong lành, cảnh quan xinh đẹp tràn đầy sức sống an bình, vẫn là những thắng tích thu hút khách thập phương tìm đến để vui hưởng sự khỏe mạnh cho thân, thanh thản cho tâm hồn. Vì thế, những khu rừng Thiền của Phật giáo hiện là mô hình kiểu mẫu được thế giới ngưỡng mộ, không phải vì lợi ích cho việc tu hành, mà chính yếu vì đó là biểu tượng cho lá phổi trong sạch của trái đất chúng ta, một điều vô cùng cần thiết trong việc bảo vệ môi trường sinh thái hiện nay.
Thiết nghĩ chưa phải là trễ để mọi tôn giáo, mọi tầng lớp xã hội và mọi quốc gia chung nhau bảo vệ môi trường sống của tất cả các loài trên hành tinh này theo mô hình mà Phật giáo đã thành công.
Cuộc sống của nhân loại, của trái đất này đang bị đe dọa bởi những cuộc khủng hoảng thời đại, những sự xung đột về tư tưởng, những sự khủng bố và những cuộc chiến tranh cùng thảm cảnh đói nghèo, bệnh tật lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới, hơn bao giờ hết, rất cần có càng nhiều càng tốt những con người sống với tinh thần Tứ Vô lượng tâm, rất cần có những quốc gia thấm nhuần ảnh hưởng sâu sắc của pháp Tứ Vô lượng tâm.
Thực hành tinh thần Tứ Vô lượng tâm trong đời sống hàng ngày, người ta không bị tác động trước những đổi thay của cuộc đời, của bản thân, tâm được bình ổn, được an vui, mới có được trí sáng suốt và hành sử đúng đắn trước những hiểm nguy của thế giới nhiều bất trắc này. Phát huy tính tích cực của giáo lý Tứ Vô lượng tâm, vừa chuyển hóa được đời sống tâm linh thăng hoa theo hướng chân thiện mỹ, đồng thời áp dụng tinh ba của pháp này vào việc phục vụ cộng đồng xã hội thông qua các hoạt động chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v… Chỉ có tinh thần cởi mở, từ ái, khoan dung, sáng suốt theo Phật giáo mới giúp cho con người giải quyết được những vấn nạn hiện tại và thiết lập được cho cộng đồng nhân loại một tương lai hòa bình, hòa hợp, phát triển, an lạc lâu dài. Và thành quả của việc thực hiện Tứ Vô lượng tâm sẽ tạo nên sự đoàn kết, tương trợ, cũng như mở ra một giá trị đạo đức vĩnh hằng trong cuộc sống con người, đó là tình thương yêu cho muôn loài, mọi giới cùng chung sống hạnh phúc dài lâu trong ngôi nhà chung trong lành, tươi đẹp.
Riêng Phật giáo Việt Nam đã từng có một quá trình lịch sử gắn bó mật thiết với đất nước và dân tộc từ thời kỳ dựng nước cho đến ngày nay. Lịch sử ghi lại hình ảnh các vị Thiền sư Việt Nam hiền lành, thanh thản, coi ngôi vua như chiếc giày rách vứt bỏ dễ dàng; nhưng khi gặp việc nghĩa, thì các ngài hy sinh không tiếc thân mạng. Phật giáo đời Lý Trần đã lưu danh thơm trên những trang sử vàng son của đất nước chúng tôi. Đối trước tình thế bắt buộc phải chống trả quân giặc xâm lăng để bảo vệ sự độc lập của đất nước, bảo vệ mạng sống của muôn dân, nhưng sau khi đuổi được giặc ngoại xâm rồi, vua quan và Thiền sư thời Lý Trần đã thể hiện tấm lòng từ bi, hỷ xả một cách cao độ. Điển hình là vua Lý Thánh Tông đã tha chết cho vua Chiêm là Chế Củ, còn cấp lương thực và thuyền bè đưa ông trở về nước một cách bình an, hoặc tha chết cho Nùng Trí Cao, mặc dù y đã mưu phản hai lần. Hoặc Đệ nhất Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sau khi dẹp yên giặc, ngài lại đối xử rất từ bi và khoan dung với họ, bằng cách ra lệnh đốt tráp đựng những bức thư thông đồng với giặc của một số quan lại. Tinh thần từ bi hỷ xả của các Thiền sư và bậc minh quân thời ấy rõ ràng đã làm dịu bớt sự căng thẳng, thù hận của nước láng giềng hùng mạnh bị thua trận và tạo được làn gió mát an lạc cho dân tộc chúng tôi một khoảng thời gian lâu dài.
Đặc biệt là Phật giáo Việt Nam hiện nay có một sắc thái đặc thù, thể hiện tinh thần hòa hợp cao độ, theo đó mọi sinh hoạt Phật giáo ở đất nước chúng tôi không phân biệt hệ phái, đều được thống nhất trong một Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Yếu tố thuận lợi này tạo thành sức mạnh cho Phật giáo Việt Nam trong việc xây dựng đất nước và phát triển đạo pháp một cách tốt đẹp vô cùng.
Những thành tựu mà giới Phật giáo chúng tôi đã đạt được trên nhiều lãnh vực, nhất là về giáo dục và hoằng pháp, chúng tôi đã mở được nhiều trường lớp Phật học, đào tạo được nhiều Tăng Ni trẻ trí thức tiêu biểu cho sức sống dài xa của đạo pháp, cùng hướng dẫn hàng cư sĩ tại gia nhiệt tâm hộ đạo; đồng thời nhiều ngôi chùa cổ đã được trùng tu, hoặc những ngôi chùa mới được xây dựng. Tất cả Tăng Ni và Phật tử Việt Nam trong suốt ba mươi năm qua cùng hòa hợp, thực hiện tâm từ bi hoan hỷ, đóng góp trí tuệ, công sức, tiền của cho công cuộc xây dựng đất nước ở thời hậu chiến, góp phần không nhỏ vào an sinh xã hội và phát triển đất nước.
Ngoài công việc hòa nhập cùng xã hội, mang an vui, lợi ích cho đất nước, cho dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã thiếp lập và mở rộng sự giao lưu thân hữu với các tổ chức Phật giáo thế giới, với các tôn giáo bạn, để cùng hợp tác, đề ra phương hướng hoạt động chung, góp phần phát triển Phật giáo trên nhiều lãnh vực, xoa dịu những nỗi đau của kiếp sống nghèo khổ, bệnh tật, cũng như giảm thiểu sự căng thẳng, bất an và đem lại hòa bình cho cộng đồng thế giới.
Tóm lại, những lời chỉ dạy của Đức Phật luôn tỏa sáng rực rỡ trong suốt hai mươi lăm thế kỷ qua. Và hơn bao giờ hết, sự thể nghiệm giáo lý của Ngài trở nên vô cùng cần thiết trong thời hiện đại, giúp con người rũ bỏ tâm hẹp hòi, ích kỷ, cố chấp, sân hận, si mê, để nhận chân được khả năng hướng thượng, hướng thiện, phát triển năng lực tiềm tàng tốt đẹp trong mỗi người chúng ta, để cuộc sống con người có ý nghĩa.
Theo dòng chảy miên viễn của năng lực từ bi hỷ xả và trí tuệ giác ngộ từ nghìn xưa cho đến ngày nay và mãi đến nghìn sau, Phật giáo đã, đang và sẽ mãi mãi tích cực xây dựng một cộng đồng xã hội phát triển lành mạnh cho mọi người; xây dựng một cộng đồng thế giới hòa bình, hòa hợp, an vui cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, thuộc mọi niềm tin tôn giáo khác nhau; xây dựng một ngôi nhà chung thân thương nối kết cuộc sống của loài người và muôn loài cùng cộng tồn, cùng phát triển theo hướng tốt đẹp nhất.
Tất cả mọi sự xung đột, thù hận, sát hại, tàn phá, chiến tranh đều được hóa giải bởi đôi tay tình thương, trái tim nhân ái và khối óc minh mẫn vì lợi ích của mọi người, của mọi loài. Và từ đó, muôn người, muôn loài đều được thụ hưởng hợp lý mọi của cải do chính họ làm ra và tận hưởng một cách công bằng mọi của cải mà thiên nhiên đã hào phóng đặt để trên hành tinh này.
Cầu nguyện cho hội nghị của chúng ta tạo được sức mạnh của tiếng nói chung, tiếng nói phát xuất từ những tâm hồn từ bi hỷ xả, sáng suốt, vị tha, để tập hợp được nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều tôn giáo khác nhau, tất cả đều đồng tình với những phương hướng hoạt động mà hội nghị chúng ta vạch ra cho việc xây dựng cuộc sống vật chất và tinh thần tốt đẹp cho mọi người, mọi loài, ở khắp mọi nơi trên quả địa cầu này, xây dựng thế giới Cực Lạc ngay tại cuộc sống nhân gian này.
Cám ơn sự lắng nghe của quý vị. Chúc hội nghị thành công và tỏa sáng năng lực từ bi hỷ xả cho nhân loại.
Có thể nói bên cạnh những tiến bộ phi thường mà con người rất tự hào, thế giới hôm nay đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, một sự khủng hoảng đang diễn tiến rất nhanh so với những điều tốt đẹp mà sự tiến bộ vật chất đã mang đến cho con người trong những thập niên qua. Những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng ấy chính là sự đối nghịch về các hệ thống giá trị, khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân tự tôn, đố kỵ, hận thù, hiểu lầm, mâu thuẫn, v.v... Ngoài ra, sự không cân đối về quyền hạn cạnh tranh kinh tế thị trường, quyền được kiểm soát các vùng… cũng đã tạo ra tình trạng khủng bố và thống trị lẫn nhau giữa các phe nhóm, sắc tộc và tôn giáo, khu vực và quốc gia. Tất cả những thảm cảnh trên đều thể hiện lòng tham lam không đáy và sự sân hận vô cùng của con người, tham lam quyền lực, mưu đồ thống trị, vơ vét lợi nhuận về cho cá nhân, cho tổ chức, cho phe nhóm.
Để có giải pháp thỏa đáng cho những vấn nạn như khủng bố, kỳ thị, phá hại, chiến tranh, môi trường, bệnh tật, nghèo đói, v.v... đang bức bách nhân loại trên toàn cầu, thiết nghĩ không gì tốt đẹp hơn là thực hiện tinh thần Phật dạy. Thật vậy, tinh thần căn bản của Phật dạy rằng mọi việc làm đều vì sự an lạc, hạnh phúc chung của loài người, không kỳ thị quốc gia, tôn giáo, sắc tộc…; điều đó mới có thể hóa giải tình trạng bất an của con người hiện nay và đem đến sự bình an cho thế hệ tương lai.
Ngày nay, trong một cộng đồng thế giới đa sắc tộc, đa tôn giáo, đa văn hóa, văn minh, những bản sắc riêng biệt cần được tôn trọng trong sự giao lưu, hội nhập đa phương. Muốn thể hiện sự hiểu biết và tôn trọng như vậy, đòi hỏi con người phải sáng suốt, khoan dung và từ bi. Lịch sử truyền bá Phật giáo trải qua năm châu bốn biển trong suốt chiều dài hơn hai mươi lăm thế kỷ đã thể hiện sâu sắc ba đặc tính là sáng suốt, khoan dung và từ bi. Trong kinh điển Phật giáo, không hề có chỗ cho sự xung đột trong tư duy hay trong hành động, thậm chí đối với sự chống đối, phá hại của những người cuồng tín thuộc tôn giáo khác. Và trên lộ trình giáo hóa độ sanh, Đức Phật cùng giáo đoàn của Ngài đến bất cứ nơi nào, đều là tấm gương điển hình cao quý nhất, vận dụng tinh thần từ bi, đoàn kết, hòa hợp, tôn trọng sự thật, để chuyển hóa mọi người đi theo con đường thánh thiện.
Sự hiện hữu và những ảnh hưởng tốt đẹp của đạo Phật trên thế gian này trải qua hơn hai ngàn năm trăm năm đã là sự khẳng định đúng đắn rằng Phật giáo chính là chất liệu nuôi dưỡng và duy trì đời sống hòa bình, an lạc, phát triển và thăng hoa tâm linh cho nhân loại. Có thể nói Phật giáo hôm nay đáp ứng cho con người ở thời đại mới một nhu cầu tâm linh mới, chẳng những không bị giáo điều ràng buộc, mà luôn giúp cho tinh thần con người luôn được vững chãi trước mọi đổi thay của nhịp sống mất phương hướng trong vòng xoáy của nền văn minh vật chất hiện đại.
Thật vậy, tinh thần Phật giáo hiện nay chính là thái độ sống nhập thế tích cực theo hướng chuyển hóa tư duy và hành động của con người trở thành cao thượng, vì nhân sinh, vì sự phát triển an bình cho xã hội, cho cộng đồng nhân loại, cho ngôi nhà chung toàn cầu. Đạo Phật đi vào đời bằng rất nhiều phương tiện khác nhau, nhưng luôn hài hòa và thích nghi theo từng quốc gia, từng phong tục tập quán địa phương, giúp cho con người nhận chân được thế nào là cuộc sống có ý nghĩa, hiểu được mối tương quan tồn tại mật thiết giữa mình với tha nhân, với cuộc đời, với muôn loài, để từ đó xây dựng nếp sống lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả các loài hữu tình và vô tình trên trái đất này.
Chính vì muốn phục vụ lợi lạc cho số đông người, Đức Phật đã sử dụng rất nhiều pháp phương tiện, thường được tượng trưng bằng con số tám mươi bốn ngàn. Vì là giáo pháp ứng cảm tùy cơ, nên pháp Phật đã mang đến lợi ích tuyệt đối cho từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh, từng trình độ khác nhau. Có thể khẳng định rằng từ những lời dạy thực tế bình dị phù hợp với trình độ phổ thông quần chúng, cho đến những nguyên lý cao siêu thích ứng với thành phần thượng tầng kiến trúc của xã hội, tất cả pháp Phật dạy đều nhằm vạch ra cho mọi người một nhân sinh quan hướng thiện, hướng thượng, từ đó giải quyết được mọi bức bách trong cuộc sống con người ở bất cứ thời đại nào.
Con người ở thời Phật tại thế cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm và con người thời hiện đại đều có những nỗi khổ chung về vật chất và tinh thần của kiếp người; nếu không muốn nói là con người thời nay gánh chịu nhiều khổ đau hơn, vì ngoài một số dữ kiện khách quan thì nguyên nhân chính yếu gây ra tình trạng bất an bắt nguồn từ "Tâm”, tâm tham lam vô hạn, tâm sân hận vô cùng và tâm mê muội của chính con người. Yếu nghĩa này đã được Đức Phật tóm gọn trong một câu của kinh Hoa Nghiêm "Muôn pháp duy tâm tạo”. Và kinh Pháp Cú cũng dạy rằng: "Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ tạo tác. Nếu nói hay hành động. Với tâm niệm bất tịnh. Khổ não liền theo sau. Như xe theo bò vậy. Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ tạo tác. Nếu nói hay hành động. Với tâm niệm thanh tịnh. An lạc liền theo sau. Như bóng chẳng rời hình.”
Như vậy, mọi việc được tốt đẹp an vui, hay xấu xa đau khổ, đều là kết quả của sự sai sử, quyết định từ tâm thiện hay tâm bất thiện của con người. Việc gieo trồng, nuôi dưỡng và thể hiện những tâm tốt lành cho mình và cho mọi người trong cuộc sống hàng ngày được nhắc nhở rất nhiều trong các kinh điển Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Tuy nhiên, trong các pháp nói về tâm, nổi bật hơn cả đối với cả hai hệ thống Nam truyền và Bắc truyền Phật giáo là giáo pháp Tứ Vô lượng tâm. Pháp Tứ Vô lượng tâm được Đức Phật nhắc đến rất nhiều và đó cũng là pháp hành của tất cả các vị Đại Bồ tát sử dụng để cảm hóa chúng sanh, là hạt nhân tất yếu mà Bồ tát cần thành tựu để tiến đến quả vị Phật, là pháp hành của các vị Thanh văn thể nghiệm để thanh tịnh hóa tâm mình, tạo được cuộc sống an lạc, giải thoát cho bản thân.
Và hiện nay, pháp Tứ Vô lượng tâm cũng được nhiều Tăng Ni, Phật tử ở khắp năm châu dù theo Thiền tông, hay Mật tông, Tịnh độ tông… đều thể nghiệm trên bước đường đi theo dấu chân Phật. Đặc biệt là pháp Tứ Vô lượng tâm có giá trị rất lớn, có công năng giải quyết ổn thỏa nhiều vấn đề bức xúc nhân loại hiện nay. Trên danh tự, bốn pháp vô lượng là tâm từ, tâm bi, tâm hoan hỷ (khoan dung) và tâm xả, nghe có vẻ đơn giản; nhưng sự thật nếu thực hiện được tinh ba của pháp này, thì thực trạng bất an của con người và xã hội sớm được giải quyết.
Các nhóm khủng bố, những cuộc xung đột giữa các phe nhóm, các vụ bạo động vũ lực giữa các nhóm tôn giáo đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới phần nhiều phát xuất từ tâm tham sân si, nên trở thành cố chấp, Phật giáo gọi là kiến thủ, dẫn đến những hành động không tôn trọng, mà còn thẳng tay tàn phá những ai mang sắc thái khác biệt với họ. Nói cách khác, chính vì không được thấm nhuần những đức tính tích cực của tâm từ bi, tâm hoan hỷ và tâm xả mà người ta gây ra những việc làm tội lỗi.
Phật giáo hướng dẫn con người thể hiện nếp sống vị tha, nếu không mang an lạc cho người thì cũng không được phép làm cho người đau khổ. Vì thế, tâm từ bi là tâm dẫn đầu, quan trọng nhất. Có tâm từ bi chỉ đạo, người ta biết quan tâm và chia sẻ nỗi đau của người khác. Không có tâm từ bi, hành động dễ bị sự ích kỷ, toan tính ác hại lôi cuốn.
Tinh thần từ bi, hỷ xả đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các tổ chức, giữa các quốc gia; đó là sự tôn trọng mọi hình thái khác biệt, hoan hỷ đối thoại và chấp nhận sự sai khác của nhau để cùng tìm ra một hướng đi chung, củng cố thêm mối quan hệ hỗ tương được lâu dài, cùng được hưởng sự lợi lạc.
Đức Phật khi giáo hóa chúng sanh, đối diện với những người không cùng quan điểm, Ngài không bao giờ dùng quyền lực để áp đặt buộc người nghe theo. Trái lại, mặc dù là bậc Thiên nhơn Sư, Đức Phật vẫn luôn tôn trọng, lắng nghe và nhẹ nhàng giảng giải cho mọi người thông hiểu được việc nên làm, điều nên tránh: "Ta chủ trương phân tích. Ta không chủ trương nói một chiều” (Kinh Subha số 99). Đó là phương cách tốt nhất để có được sự hiểu biết tốt đẹp cho các mối quan hệ trong xã hội hay trong bang giao quốc tế.
Theo Phật giáo, dùng tâm sân hận để hành động trả thù không thể giải quyết vấn đề khủng hoảng, mà còn làm tăng thêm tình trạng bất an, lo sợ và gây thêm nhiều thảm họa nữa. Tình trạng khủng bố đang diễn ra kéo theo những cuộc chiến sa lầy, gây chết chóc, sợ hãi, khổ đau cho nhiều người hiện nay. Thảm họa này một lần nữa chứng minh cho mọi người nhận ra giá trị hằng hữu của lời Phật dạy rằng hận thù không thể dập tắt hận thù, chỉ có tâm từ bi mới hóa giải được mọi hận thù.
Ngoài ra, trong cuộc sống hiện đại, mối quan hệ hỗ tương (inter-relationship) mật thiết chẳng những giữa con người với con người, mà với các loài khác và với môi trường sinh thái rất quan trọng. Vì thế, môi trường sinh thái trên trái đất là một trong những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của loài người hiện nay. Mối quan tâm ấy được thể hiện qua Ngày Môi trường thế giới, ngày 5 tháng 6 năm 1966. Tất cả khoa học gia trong mọi lãnh vực, các kinh tế gia, triết gia, các nhà nghiên cứu, báo chí, đài truyền thanh, truyền hình, v.v… đều phân tích và báo động về sự tác hại nghiêm trọng của các độc tố gây ra cho môi trường sống của loài người, loài vật, cỏ cây. Nói chung, sức khỏe và mạng sống của mọi sinh loại trên địa cầu này đang bị chính con người đầu độc, giết hại. Mối nguy cơ đe dọa đến hệ sinh thái không phải nhỏ, từ đó nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa hoặc hạn chế bớt sự ô nhiễm được đề ra, mang tính cách toàn cầu, trong đó có mười Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
Ý thức cần bảo vệ sự sống và môi trường sinh thái mới được thế giới báo động trong những năm gần đây; nhưng đối với Phật giáo, đó là một điều luật căn bản mà Đức Phật đã đặt ra từ hai mươi lăm thế kỷ trước cho hàng đệ tử phải tuân thủ. Đức Phật dạy những ai muốn đi cùng lộ trình như Ngài, nhất định phải thể hiện tâm từ bi. Chẳng những không được sát hại, phải tôn trọng sự sống của loài người, loài vật, cho đến cỏ cây, mà còn phải bảo vệ tất cả muôn loài. Với trí giác toàn hảo của Đức Phật, Ngài thấy muôn loài trong vũ trụ đều đồng nhau ở dạng thể tánh và trên hiện tượng giới, sự sống muôn vật cùng cộng hưởng, cộng tồn, không thể tách rời. Mối tương quan tương duyên chằng chịt, mật thiết giữa muôn sự, muôn vật trong vũ trụ đã được kinh Hoa Nghiêm nêu ra rằng cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt. Vì thế, làm hại người khác, làm hại các loài khác, là làm hại chính mình.
Thế nhưng, con người ngày nay tự cho rằng mình khôn ngoan nhất trong các loài, lại sử dụng trí khôn một cách sai lầm và vị kỷ để hủy diệt các loài khác, tàn phá núi rừng, khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, v.v…, để rồi cuối cùng tàn phá môi trường sống của chính mình. Tất cả mọi sự hư hỏng, tan nát làm hại cho môi trường sinh thái đến mức báo động đỏ, thực sự đều phát xuất từ tâm niệm ác xấu, trục lợi quá mức của con người. Trong khi loài thú bị xem là hạ đẳng, dù dữ như cọp, sói sống với thiên nhiên, nhưng chúng nào có tàn phá thiên nhiên. Chỉ có loài người hủy hoại trái đất này nhiều nhất.
Môi trường bên ngoài ô nhiễm trầm trọng chính vì môi trường trong tâm con người hư hỏng nặng nề. Lòng tham không đáy đã thúc đẩy con người đòi hỏi sự hưởng thụ vượt quá những nhu cầu cần thiết và kéo họ lao vào những cuộc tranh giành bất tận, đưa đến tiêu diệt lẫn nhau và phá hư môi trường sống.
Không tham lam, xấu ác, người thể nghiệm giáo pháp Phật sống thiểu dục, tri túc. Cách sống thiểu dục, tri túc không có nghĩa là sống hèn hạ, an phận, thiếu hiểu biết, thiếu nỗ lực vươn đến sự phát triển; trái lại, đó là cách sống sáng suốt và cao thượng, hạn chế lòng vị kỷ, sống hài hòa với thiên nhiên, không làm hư môi sinh, vì nhận biết được những gì nên khai thác và khai thác đến mức độ nào, những gì cần bảo vệ để cho con em thế hệ kế tiếp của chúng ta khai thác. Ngược lại, tham muốn quá nhiều gom về cho cá nhân hay phe nhóm, khiến con người trở thành mù quáng, tàn bạo một cách phi lý. Họ sẵn sàng giao chiến, gây chết chóc, bệnh tật, nghèo đói, tiêu hủy mầm sống của các loài, khiến cho môi sinh trên quả địa cầu ngày càng xấu thêm. Hoặc bằng mọi cách, họ chiếm cho được món lợi khổng lồ, không quan tâm, hay không biết đến sự tác hại của việc khai thác bừa bãi, làm cạn kiệt tài nguyên, xả những chất độc hại vào không khí, vào dòng nước, vào lòng đất, làm ô nhiễm môi sinh, mất cân bằng sinh thái.
Thể hiện rõ nét sự sống hài hòa với thiên nhiên, các ngôi chùa thường được xây dựng trên đồi núi hoặc trong khu rừng. Và quan trọng hơn nữa, trong thời buổi mà rừng bị con người tàn phá không thương tiếc, thì hiện nay nhà chùa đang đóng vai trò tích cực trong viêc việc gìn giữ, bảo hộ rừng và trồng rừng một cách tốt đẹp. Cảnh trí của nhiều ngôi chùa ở một số quốc gia cũng như ở đất nước Việt Nam chúng tôi, với rừng cây thiên nhiên, núi non tươi tốt, ao hồ trong sạch, không khí trong lành, cảnh quan xinh đẹp tràn đầy sức sống an bình, vẫn là những thắng tích thu hút khách thập phương tìm đến để vui hưởng sự khỏe mạnh cho thân, thanh thản cho tâm hồn. Vì thế, những khu rừng Thiền của Phật giáo hiện là mô hình kiểu mẫu được thế giới ngưỡng mộ, không phải vì lợi ích cho việc tu hành, mà chính yếu vì đó là biểu tượng cho lá phổi trong sạch của trái đất chúng ta, một điều vô cùng cần thiết trong việc bảo vệ môi trường sinh thái hiện nay.
Thiết nghĩ chưa phải là trễ để mọi tôn giáo, mọi tầng lớp xã hội và mọi quốc gia chung nhau bảo vệ môi trường sống của tất cả các loài trên hành tinh này theo mô hình mà Phật giáo đã thành công.
Cuộc sống của nhân loại, của trái đất này đang bị đe dọa bởi những cuộc khủng hoảng thời đại, những sự xung đột về tư tưởng, những sự khủng bố và những cuộc chiến tranh cùng thảm cảnh đói nghèo, bệnh tật lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới, hơn bao giờ hết, rất cần có càng nhiều càng tốt những con người sống với tinh thần Tứ Vô lượng tâm, rất cần có những quốc gia thấm nhuần ảnh hưởng sâu sắc của pháp Tứ Vô lượng tâm.
Thực hành tinh thần Tứ Vô lượng tâm trong đời sống hàng ngày, người ta không bị tác động trước những đổi thay của cuộc đời, của bản thân, tâm được bình ổn, được an vui, mới có được trí sáng suốt và hành sử đúng đắn trước những hiểm nguy của thế giới nhiều bất trắc này. Phát huy tính tích cực của giáo lý Tứ Vô lượng tâm, vừa chuyển hóa được đời sống tâm linh thăng hoa theo hướng chân thiện mỹ, đồng thời áp dụng tinh ba của pháp này vào việc phục vụ cộng đồng xã hội thông qua các hoạt động chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v… Chỉ có tinh thần cởi mở, từ ái, khoan dung, sáng suốt theo Phật giáo mới giúp cho con người giải quyết được những vấn nạn hiện tại và thiết lập được cho cộng đồng nhân loại một tương lai hòa bình, hòa hợp, phát triển, an lạc lâu dài. Và thành quả của việc thực hiện Tứ Vô lượng tâm sẽ tạo nên sự đoàn kết, tương trợ, cũng như mở ra một giá trị đạo đức vĩnh hằng trong cuộc sống con người, đó là tình thương yêu cho muôn loài, mọi giới cùng chung sống hạnh phúc dài lâu trong ngôi nhà chung trong lành, tươi đẹp.
Riêng Phật giáo Việt Nam đã từng có một quá trình lịch sử gắn bó mật thiết với đất nước và dân tộc từ thời kỳ dựng nước cho đến ngày nay. Lịch sử ghi lại hình ảnh các vị Thiền sư Việt Nam hiền lành, thanh thản, coi ngôi vua như chiếc giày rách vứt bỏ dễ dàng; nhưng khi gặp việc nghĩa, thì các ngài hy sinh không tiếc thân mạng. Phật giáo đời Lý Trần đã lưu danh thơm trên những trang sử vàng son của đất nước chúng tôi. Đối trước tình thế bắt buộc phải chống trả quân giặc xâm lăng để bảo vệ sự độc lập của đất nước, bảo vệ mạng sống của muôn dân, nhưng sau khi đuổi được giặc ngoại xâm rồi, vua quan và Thiền sư thời Lý Trần đã thể hiện tấm lòng từ bi, hỷ xả một cách cao độ. Điển hình là vua Lý Thánh Tông đã tha chết cho vua Chiêm là Chế Củ, còn cấp lương thực và thuyền bè đưa ông trở về nước một cách bình an, hoặc tha chết cho Nùng Trí Cao, mặc dù y đã mưu phản hai lần. Hoặc Đệ nhất Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sau khi dẹp yên giặc, ngài lại đối xử rất từ bi và khoan dung với họ, bằng cách ra lệnh đốt tráp đựng những bức thư thông đồng với giặc của một số quan lại. Tinh thần từ bi hỷ xả của các Thiền sư và bậc minh quân thời ấy rõ ràng đã làm dịu bớt sự căng thẳng, thù hận của nước láng giềng hùng mạnh bị thua trận và tạo được làn gió mát an lạc cho dân tộc chúng tôi một khoảng thời gian lâu dài.
Đặc biệt là Phật giáo Việt Nam hiện nay có một sắc thái đặc thù, thể hiện tinh thần hòa hợp cao độ, theo đó mọi sinh hoạt Phật giáo ở đất nước chúng tôi không phân biệt hệ phái, đều được thống nhất trong một Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Yếu tố thuận lợi này tạo thành sức mạnh cho Phật giáo Việt Nam trong việc xây dựng đất nước và phát triển đạo pháp một cách tốt đẹp vô cùng.
Những thành tựu mà giới Phật giáo chúng tôi đã đạt được trên nhiều lãnh vực, nhất là về giáo dục và hoằng pháp, chúng tôi đã mở được nhiều trường lớp Phật học, đào tạo được nhiều Tăng Ni trẻ trí thức tiêu biểu cho sức sống dài xa của đạo pháp, cùng hướng dẫn hàng cư sĩ tại gia nhiệt tâm hộ đạo; đồng thời nhiều ngôi chùa cổ đã được trùng tu, hoặc những ngôi chùa mới được xây dựng. Tất cả Tăng Ni và Phật tử Việt Nam trong suốt ba mươi năm qua cùng hòa hợp, thực hiện tâm từ bi hoan hỷ, đóng góp trí tuệ, công sức, tiền của cho công cuộc xây dựng đất nước ở thời hậu chiến, góp phần không nhỏ vào an sinh xã hội và phát triển đất nước.
Ngoài công việc hòa nhập cùng xã hội, mang an vui, lợi ích cho đất nước, cho dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã thiếp lập và mở rộng sự giao lưu thân hữu với các tổ chức Phật giáo thế giới, với các tôn giáo bạn, để cùng hợp tác, đề ra phương hướng hoạt động chung, góp phần phát triển Phật giáo trên nhiều lãnh vực, xoa dịu những nỗi đau của kiếp sống nghèo khổ, bệnh tật, cũng như giảm thiểu sự căng thẳng, bất an và đem lại hòa bình cho cộng đồng thế giới.
Tóm lại, những lời chỉ dạy của Đức Phật luôn tỏa sáng rực rỡ trong suốt hai mươi lăm thế kỷ qua. Và hơn bao giờ hết, sự thể nghiệm giáo lý của Ngài trở nên vô cùng cần thiết trong thời hiện đại, giúp con người rũ bỏ tâm hẹp hòi, ích kỷ, cố chấp, sân hận, si mê, để nhận chân được khả năng hướng thượng, hướng thiện, phát triển năng lực tiềm tàng tốt đẹp trong mỗi người chúng ta, để cuộc sống con người có ý nghĩa.
Theo dòng chảy miên viễn của năng lực từ bi hỷ xả và trí tuệ giác ngộ từ nghìn xưa cho đến ngày nay và mãi đến nghìn sau, Phật giáo đã, đang và sẽ mãi mãi tích cực xây dựng một cộng đồng xã hội phát triển lành mạnh cho mọi người; xây dựng một cộng đồng thế giới hòa bình, hòa hợp, an vui cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, thuộc mọi niềm tin tôn giáo khác nhau; xây dựng một ngôi nhà chung thân thương nối kết cuộc sống của loài người và muôn loài cùng cộng tồn, cùng phát triển theo hướng tốt đẹp nhất.
Tất cả mọi sự xung đột, thù hận, sát hại, tàn phá, chiến tranh đều được hóa giải bởi đôi tay tình thương, trái tim nhân ái và khối óc minh mẫn vì lợi ích của mọi người, của mọi loài. Và từ đó, muôn người, muôn loài đều được thụ hưởng hợp lý mọi của cải do chính họ làm ra và tận hưởng một cách công bằng mọi của cải mà thiên nhiên đã hào phóng đặt để trên hành tinh này.
Cầu nguyện cho hội nghị của chúng ta tạo được sức mạnh của tiếng nói chung, tiếng nói phát xuất từ những tâm hồn từ bi hỷ xả, sáng suốt, vị tha, để tập hợp được nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều tôn giáo khác nhau, tất cả đều đồng tình với những phương hướng hoạt động mà hội nghị chúng ta vạch ra cho việc xây dựng cuộc sống vật chất và tinh thần tốt đẹp cho mọi người, mọi loài, ở khắp mọi nơi trên quả địa cầu này, xây dựng thế giới Cực Lạc ngay tại cuộc sống nhân gian này.
Cám ơn sự lắng nghe của quý vị. Chúc hội nghị thành công và tỏa sáng năng lực từ bi hỷ xả cho nhân loại.