cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Phật giáo và bảo vệ môi trường

(Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 68 tại chùa Phổ Quang ngày 7-6-2009)

         Mới nghe chủ đề này, nhiều người cảm thấy hơi lạ và thắc mắc rằng trong kinh điển Phật giáo có đề cập đến vấn đề này hay không.

Đức Phật hiện hữu trên cuộc đời này cách xa chúng ta hơn 2500 năm, nhưng lời dạy của Ngài về cách sống tốt đẹp cho người xuất gia cũng như cho toàn thể nhân loại vẫn còn thích hợp với thời đại chúng ta ngày nay. Vì vậy, có thể khẳng định rằng khi triển khai tinh ba của Phật dạy ở lãnh vực nào của xã hội, chúng ta cũng thấy đều nằm trong Phật pháp. Vì vậy, đối với vấn đề bảo vệ môi trường, ngày nay loài người mới đặt ra, trong khi đó Đức Phật đã quy định cách sống để bảo vệ môi trường từ hơn hai ngàn năm trước.

Nhân loại có nhiều nền văn hóa và triết học khác nhau, nhưng thông thường, người ta chia ra triết học phương Đông và triết học phương Tây. Triết học phương Tây phần nhiều chịu ảnh hưởng nền văn minh cổ của Ai Cập, Hy Lạp, La Mã. Còn phương Đông thì nổi bật hai nền triết học lớn của Trung Hoa và Ấn Độ.

Triết học phương Tây nhằm hướng dẫn con người chinh phục thiên nhiên và xã hội, nghĩa là người phương Tây có khuynh hướng buộc xã hội phải theo con người, buộc thiên nhiên phải tuân theo sự sắp xếp của mình. Vì vậy, chúng ta thấy tất cả những nghiên cứu của phương Tây dẫn đến nền khoa học hiện đại ngày nay đều nhằm mục tiêu khám phá thiên nhiên để chinh phục vũ trụ. Nhưng trên thực tế thì thân phận con người quá nhỏ bé, cho nên việc chinh phục vũ trụ từ trước đến nay chưa ai thực hiện được một cách trọn vẹn, hay có chinh phục được chăng nữa cũng chỉ có giá trị tạm thời mà thôi. Chính vì vậy mà cuối cùng con người cũng bị xã hội bao vây và bị định luật thiên nhiên chi phối, không thoát khỏi được.

Dưới Phật nhãn, những gì mà người phương Tây và triết học của họ đưa ra, Đức Phật đã thấy rất chính xác; nhưng theo Ngài, chúng ta chinh phục thiên nhiên và vũ trụ bằng cái gì. Chinh phục vũ trụ bằng công cụ khoa học có được hay không. Thực tế cho thấy tất cả những phát minh được coi là văn minh của con người thì cuối cùng các nền văn minh đều tự tiêu diệt nhau.

Đức Phật dạy rằng con người mang tham vọng chinh phục xã hội và thiên nhiên, nhưng sau cùng người ta lại bị xã hội và thiên nhiên đánh ngã. Tuy nhiên, theo Phật, chúng ta vẫn có thể chinh phục ngoại giới và nội giới, nếu thực hành đúng giáo pháp của Ngài. Nhà triết học Ấn Độ là Viện trưởng sáng lập Đại học Delhi nói rằng con người xứng đáng với danh nghĩa con người là người đó chinh phục được ngoại giới và nội giới. Chinh phục ngoại giới rất khó, mà chinh phục nội giới còn khó hơn nhiều. Hiểu được định luật chi phối các hành tinh là điều rất hay, nhưng hiểu được định luật chi phối con người thì càng khó hơn.

Đức Phật là người hiểu và vận dụng được định luật chi phối tình cảm con người, chi phối cuộc sống con người và hiểu rõ cả định luật chi phối thiên nhiên. Việc chinh phục con người được Đức Phật giảng rõ trong tất cả kinh điển và chinh phục được thiên nhiên ở đỉnh cao được Phật dạy trong kinh Hoa Nghiêm. Con người sinh ra trong trời đất, nhưng chinh phục được trời đất.

Đức Phật dạy rằng con người khổ đau chỉ vì tham vọng. Vì vậy, nếu chúng ta dẹp bớt được một phần tham vọng, hay đoạn trừ được một phần lòng ganh tức, thù hận, thì chúng ta sẽ bớt được một phần khổ đau. Nếu chúng ta đoạn tất cả kiến hoặc và phiền não, nói cách khác, đoạn được tình cảm xấu ác của con người là hết khổ đau, vì chỉ có tình cảm trong sáng mới không khổ.

Lịch sử cho thấy các nhà chinh lược phương Tây luôn nghĩ cách khơi dậy lòng ham muốn, tập hợp những người ham muốn và kích động họ tham gia công cuộc chinh lược từ bộ lạc này đến bộ lạc khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ liên minh này đến liên minh khác. Điều đó thể hiện lòng tham vọng chinh phục con người, mà cố giáo sư Hoàng Xuân Hãn gọi là tình thương giả dối của loại người làm chính trị thường tìm cách tập hợp mọi người để đi chinh lược người khác. Trong khi tình thương của Đức Phật hoàn toàn khác hẳn. Ông nói rằng tình thương của Phật đã được các vua triều Lý thể hiện trong việc trị nước an dân, đó là tình thương chân thật được kết hợp bằng tâm từ bi; cho nên các vua Lý rất thương người, thương dân. Chính nhờ chịu ảnh hưởng đạo Phật mà các vua Lý đã xây dựng được triều đại thịnh trị tốt đẹp như vậy.

Tinh thần Phật dạy rất cao, Ngài chinh phục được nội giới, hoàn toàn không có bất cứ sự chi phối nào của tham vọng, của lòng thù hận, bực tức; từ đó, tất cả những lời nói và việc làm của Đức Phật chỉ thể hiện tâm từ bi. Và sống với tâm thuần từ bi như vậy, cho nên những ai nghe hoặc thấy Phật, tâm họ đều được an lạc. Điều này thể hiện rõ nét Đức Phật đã chinh phục được tâm Ngài theo hướng trong sáng, nên Ngài chi phối cả mọi người, chi phối xã hội một cách thuần thiện. Người tốt gặp Phật, họ phát tâm Bồ đề, làm căn lành họ phát triển; nhưng người xấu đến hại Phật thì tâm xấu của họ chạm phải tâm từ bi của Phật sẽ chuyển hóa được lòng thù hận của họ trở thành hiền lương.

Chinh phục được con người như thế, Đức Phật vẽ ra cho chúng ta quá trình quán sát sự vật. Trong kinh Hoa Nghiêm, Ngài dạy rằng tất cả các Đức Phật đều có mười loại hình khác nhau, không phải chỉ có một thân hình. Mười thân này biến ra hằng hà sa số Phật. Chúng ta tưởng chỉ có một Phật Thích Ca, nhưng Phật nói Ngài có thiên bá ức hóa thân; đó là điều quan trọng mà Phật đã phát hiện và sử dụng được.

Và trong một hóa Phật có vô số hóa Bồ tát tu trong chánh pháp của Ngài và vô số hóa Bồ tát này cũng phát xuất từ một gốc là thân ngũ uẩn mà ra. Vì vậy, tu hành chuyển hóa ngũ uẩn thân gồm sắc, thọ, tưởng, hành và thức là pháp căn bản của đạo Phật; cho nên, có thể thấy rằng kinh Hoa Nghiêm cao tột, nhưng cũng phát xuất từ kinh Phật giáo Nguyên thủy.

Theo tinh thần Hoa Nghiêm, thân ngũ uẩn của con người cũng gắn liền với cả vũ trụ bao la. Vì thế, chinh phục được thân này là chinh phục được cả vũ trụ. Chinh phục được tình cảm của chúng ta là chinh phục được tình cảm của xã hội. Vì vạn vật đồng nhất thể, nhưng loài người do vô minh ngăn che, do hiểu lầm, nghĩ mình có thể chinh phục người này, người khác, nghĩ mình có thể thay đổi được quốc gia cho đến vũ trụ theo ý mình; đó là sự sai lầm trầm trọng.

Trong thân thể chúng ta nếu có một phần bị thương thì chúng ta sẽ bị đau toàn thân và đau cả tâm hồn. Cũng vậy, ngũ ấm thân có mối liên kết chặt chẽ với vũ trụ. Vì vậy, nếu chúng ta phát triển thân tâm mình theo chiều hướng xấu ác, khiến thân tâm mất thăng bằng, thì sẽ tác động làm cho xã hội mất thăng bằng, bị loạn động và cũng sẽ làm đảo loạn vũ trụ. Chính vìmối tương quan cộng tồn rất mật thiết giữa muôn sự muôn vật, giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, vũ trụ, mà Phật dạy rằng "Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”, cho nên một cái mất thăng bằng sẽ ảnh hưởng xấu đến những cái khác. Nhận thức như vậy, chúng ta phải bảo tồn các loài khác, người khác, bảo tồn xã hội, bảo tồn thiên nhiên thì đó là bảo tồn chính chúng ta.

Thử nghĩ xem một người quá giàu trong xã hội quá nghèo, chắc chắn khó tồn tại được. Thực tế cho thấy biết bao chế độ sụp đổ do sự mất thăng bằng xã hội, nói cho dễ hiểu là có sự chênh lệch lớn giữa người quá giàu và người quá nghèo. Phải hướng dẫn người giàu để họ nhận thấy được tinh thần bao dung rất cao quý, thể hiện qua những việc làm nâng cao đời sống vật chất và tri thức cho người nghèo; đó là điều vô cùng cần thiết cho xã hội, trong đó có họ được yên ổn, được phát triển.

Để tạo dựng sự thăng bằng cho xã hội, Đức Phật dạy Bồ tát hành đạo là đem nguồn vui cho người nghèo, đem lại sự ấm no cho người nghèo, như vậy là làm cho Phật hoan hỷ. Làm chúng sinh đau khổ, làm xã hội mất thăng bằng không phải là đệ tử Phật.

Khi chúng ta biết thương và giúp đỡ nhau, xã hội này chắc chắn được an lạc. Đừng bao giờ làm một thành phần bị sụp đổ; vì ngũ uẩn của chúng ta là thể thống nhất chung của muôn loài, của xã hội, của vũ trụ, của con người. Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm nói rằng từ ngũ uẩn hiện ra quốc độ và chúng sinh.

Quốc độ là gì? Quốc độ là thế giới, là chỗ cho chúng sinh nương tựa, tồn tại. Không có quốc độ, chúng sinh không tồn tại được. Từ ngũ uẩn hiện ra quốc độ, cho nên Phật coi quốc độ và ngũ uẩn đều là thân của Phật. Hiểu như vậy, chúng ta coi sơn hà đại địa là thân của chúng ta. Cho nên, bảo vệ môi trường sống cũng là bảo vệ Phật, vì môi trường sống chính là sinh mệnh của Phật và sinh mệnh của chúng ta cũng nhờ đây mà tồn tại.

Có thể nói bảo bệ quốc độ, hay bảo vệ trái đất này là bảo vệ sự tồn tại của tất cả chúng sinh. Có bao nhiêu chúng sinh, có bao nhiêu chủng loại? Có rất nhiều, nhưng Đức Phật gộp lại có tứ sanh lục đạo. Tứ sanh gồm có loài đẻ trứng, loài đẻ con, loài sống dưới nước, loài sống trong hư không. Sự sống của tất cả các loài này được cân bằng với nhau thì tất cả cùng tồn tại. Loài người do vô minh không nhận thấy lý này, nhưng ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học đã mở ra cho chúng ta thấy sự cân bằng thiết yếu này của môi sinh. Nếu trong hư không, chúng ta xả những chất độc hại vào, chúng ta sẽ chết vì thiếu không khí trong lành. Trong nước cũng vậy, nếu làm ô nhiễm dòng nước, bệnh tật và tử vong sẽ đến với con người. Một khi tất cả các loài sống trong không khí, trong nước, trên mặt đất bị chết, chắc chắn chúng ta cũng không sống được. Vì vậy, bảo vệ tất cả các loài sống trên mặt đất, sống trong không khí, sống trong nước là bảo vệ sự sống của chính con người.

Muốn cho loài người và muôn loài cùng môi sinh được tồn tại, phải phát triển trí tuệ theo Như Lai, trước nhất là cần dẹp bỏ tham vọng, thấy được sự cân bằng và tạo môi trường cân bằng, ngày nay gọi là bảo vệ sinh thái. Trước mắt là bảo vệ màu xanh của cây cỏ, của núi rừng và bảo vệ tất cả các loài đang sống trên trái đất này, để con người và muôn loài đều cộng hưởng, cộng tồn. Như đã nói đó là mối tương quan mật thiết giữa loài người và các loài khác theo lý Duyên sinh mà Phật dạy rằng cái này có thì cái kia có.

Cũng nằm trong lý Duyên sinh, làm dòng nước, không khí và mặt đất trong sạch, thanh tịnh, thì đó là Tịnh độ. Tịnh độ khác với uế độ ở sự trong sạch. Cực lạc của Phật Di Đà có ba thứ trong sạch hoàn toàn là nước sạch, không khí sạch và đất sạch, vì tâm của cư dân nơi đó thuần sạch, tiêu biểu cho thế giới văn minh tột đỉnh. Đức Phật DiĐà dùng công đức để trang nghiêm Tịnh độ của Ngài như thế. Trong khi thế giới địa ngục cũng do chúng sinh tạo ra từ tham vọng đến mức trở thành mù quáng, mới làm những việc tội lỗi dẫn đến tù tội, khổ đau cùng cực.

Ngũ uẩn tuy là một, nhưng nếu có Phật và Bồ tát ra đời, thì có thể phát triển, chuyển hóa thành thiên đường, hay Cực lạc. Còn dùng tham vọng để chinh phục chẳng những không được, mà còn tiêu diệt hạnh phúc của mọi người. Điển hình như nhà chinh lược Hitler muốn đưa nước Đức lên tận trời xanh, nhưng ông đã dìm nước Đức xuống tận địa ngục và tạo ra cảnh tang thương chết chóc cho quá nhiều người. Đó là do tham vọng chỉ đạo ông mà từ đó kết hợp những người ác tạo thành thế giới khổ đau.

Xây dựng ngũ uẩn trở thành Cực lạc, hay thiên đường bằng cách nào? Đức Phật dạy chuyển đổi ngũ uẩn thân thành Pháp thân qua trung gian là tâm. Nói cách khác, điều chỉnh ngũ uẩn thân để chuyển thành ngũ phần tâm và ngũ phần tâm biến thành Pháp thân Bồ tát ngang qua Pháp thân Phật, chúng ta có Niết bàn.

Trong ngũ uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cái nào dễ thấy được, chúng ta chuyển đổi trước. Sắc uẩn là những gì thuộc vật chất, hình thức bên ngoài dễ thấy, chúng ta điều chỉnh trước. Đầu tiên thấy được thân chúng ta tốt hay xấu, khỏe mạnh hay ốm đau, v.v...…Đức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và sức khỏe tuyệt vời, thông minh tột đỉnh. Đó là do Phật tu được giới đức. Thân người tuy giống nhau, nhưng nếu biết điều chỉnh, chúng ta sẽ trở thành người đức hạnh và dùng đức hạnh để cảm hóa được người khác. Còn dùng thủ đoạn thì không lâu bền, chỉ được tạm bợ thôi. Trong khi dùng đạo đức có kết quả vĩnh viễn, vì nếu ta làm được nhiều việc tốt, thì những cái tốt này sẽ gắn liền với cuộc sống chúng ta và nối kết mãi với xã hội mà chúng ta sống.

Vì vậy, phải thấy được giới đức là cần thiết cho cuộc sống chúng ta và Phật dạy để thành tựu giới đức, quan trọng là không được sát, đạo, dâm, vọng; nghĩa là con người đức hạnh thì không làm tổn hại sự sống của các loài, không gian tham trộm cướp, không lường gạt và không nói dối.

Chúng ta tu theo Phật, chính mình phải tự thực hiện trước nhất những điều này. Khi thành tựu được đức hạnh là chúng ta có được một phần Pháp thân và điều tốt này ảnh hưởng tốt vào thiên nhiên, vào xã hội chúng ta sống. Đức Phật là bậc đức hạnh đệ nhất và Ngài dùng đức hạnh để cảm hóa mọi người, cho nên ai trông thấy Ngài cũng sanh tâm kính trọng và ảnh hưởng của đức hạnh vô cùng ấy vẫn còn ảnh hưởng mãnh liệt đến nhân loại ngày nay trên khắp năm châu bốn biển trải qua hơn 25 thế kỷ. Không ai nói xấu được Phật là vậy. Phật dạy rằng người xấu hại người tốt là tự hại họ; cho nên nếu bị nói xấu, ta không nên phản ứng. Nếu ta tốt thật sự và được nhiều người thương quý, họ sẽ bảo vệ ta và xúc phạm đến ta thì sẽ bị xã hội chống lại. Thể hiện tinh thần này, Phật đã một mình một bóng đến tu viện của Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp. Bấy giờ, thế lực của ông là quốc sư, có 500 đồ chúng tu tại đây và có cả người tại gia. Đức Phật biết rõ ông và đệ tử không thể hại Ngài, vì Phật không có lỗi lầm và được xã hội kính trọng. Quả tình Phật đã cảm hóa được ông, ông trở thành đệ tử Phật, làm tăng thêm số đệ tử theo Ngài là một ngàn người. Như vậy có nghĩa là giới đức của Phật đã có sức cảm hóa một ngàn người.

Ngoài Giới đức, tâm thứ hai là Định cũng rất quan trọng. Khi tâm chúng ta được an định, tập trung một chỗ sẽ giúp chúng ta thấy chính xác, là Huệ. Giới, định và huệ là ba điều căn bản của đạo Phật và còn thêm phần Giải thoát, là ta không lệ thuộc thiên nhiên và xã hội. Sau cùng, chúng ta thấy đúng như thật tất cả mọi việc là giải thoát tri kiến. Như vậy, từ ngũ uẩn thân đã chuyển hóa thành Pháp thân. Ngài Huyền Giác nói rằng ngũ uẩn sanh thân tức Pháp thân.

Khéo tu Bồ tát đạo, chuyển ngũ uẩn thân thành Pháp thân, nhưng quan trọng là giải thoát và giải thoát tri kiến; đừng chuyển thành ma chướng. Tu sai nghĩ rằng tại sao người chống đối mình, hại mình, vì chỉ có nghiệp và sai lầm của mình hại được mình mà thôi. Người không ác xấu, nhưng mình hiểu lầm họ xấu ác, cuối cùng họ cũngbỏ mình. Chúng ta chuyển đổi ngũ uẩn thân trở thành tốt, là thành thiên đường; chuyển thành xấu là thành địa ngục, cũng do chúng ta, chứ không ai khác. Trên bước đường tu, ứng dụng pháp chuyển đổi này để bảo vệ môi trường sống cho tất cả mọi loài chính là bảo vệ sự sống của chúng ta.

Từ ngũ uẩn gắn liền với quốc độ và quốc độ này là thân của Tỳ Lô Giá Na, của ta, nên ta chuyển đổi được. Cho nên, bảo vệ và dìu dắt chúng sinh tu hành trong chánh pháp là làm cho mình an lành. Điều này dễ nhận ra vì trên thực tế, nếu người xung quanh bất an thì làm sao chúng ta an được. Người xung quanh đói khát, làm sao chúng ta ăn ngon ngủ yên được.

Đức Phật nói muốn bảo vệ chúng sinh, quốc độ và ngũ uẩn, phải có tinh thần vị tha vô ngã. Sa môn thân là người tu thể hiện cuộc sống vị tha vô ngã, vì Sa môn không giữ tài sản, bởi lẽ tài sản luôn là mối tranh chấp của con người. Sa môn chỉ có tài sản là Tam bảo dùng làm phúc lợi cho mọi người. Nhờ sống vị tha vô ngã, Sa môn làm cho xã hội được an lành; nhưng nếu sai lầm, chỉ lo cho chùa mà để chúng sinh đói thì chùa khó tồn tại. Thể hiện tinh thần này, sinh hoạt của Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh được phát triển đến ngày nay, một phần lớn là do những việc làm từ thiện xã hội. Giới Phật giáo tuy không giàu có, nhưng năm nay đã hỗ trợ cho đồng bào trên 300 tỷ đồng. Điều này chứng minh rằng làm cho chúng sinh là làm cho chúng ta tồn tại, làm cho an sinh xã hội tốt đẹp là làm cho Phật pháp hưng thịnh. Nếu phạm sai lầm, gom tài sản chung làm của riêng mình thì làm xã hội băng hoại, làm Phật giáo suy đồi. Do chúng ta làm nhiều việc tốt cho xã hội, công đức sinh ra, mới có ngôi nhà truyền thống Phổ Quang và giảng đường khang trang rộng lớn này.

Thiết nghĩ bằng mọi cách, phải hình thành được Sa môn thân, vì không có người xuất gia sống vị tha, thể hiện tình thương cho mọi người, thì xã hội này dễ băng hoại. Ai cũng sống ích kỷ, làm sao giúp cho người kém may mắn vươn lên, tạo thế cân bằng trong xã hội được. Phải nói Sa môn rất cần cho xã hội. Đức Phật xưa kia đi tu cũng để giúp cho mọi người thức tỉnh khỏi cuộc sống tệ ác, sẵn sàng sát hại lẫn nhau; nói cách khác, Phật đã tạo thế cân bằng trong xã hội. Sa môn thân là người tu xuất gia sống ngoại vật, không làm chính trị, không kinh doanh, thể hiện thân giải thoát. Đó là thân thứ tư của Phật.

Từ cuộc sống Sa môn nâng lên, tạo được phước đức để san sẻ chomọi người là hiện thân thứ năm của Phật là Bồ tát thân đi vào đời làm lợi ích cho xã hội. Bồ tát giúp người nghèo thoát cảnh nghèo đói và phát triển được cuộc sống bằng cách hướng dẫn người giàu phát tâm bố thí, san sẻ cho người kém may mắn vươn lên như họ. Đó chính là Bồ tát tạo sự cân bằng cho xã hội.

Và khi tu tạo Bồ tát thân viên mãn, trở thành Như Lai thân. Như Lai thân lấy trí tuệ làm chuẩn, nghĩa là không có thân, chỉ có trí tuệ, nên lấy trí làm thân gọi là Trí thân. Dùng Trí thân chi phối tất cả các pháp, biến thành Phật pháp, là Pháp thân. Và cuối cùng thành Tỳ Lô Giá Na thân là đỉnh cao nhất của Phật chi phối cả nội giới và ngoại giới.

Tóm lại, mười thân Phật gồm ngũ uẩn thân, chúng sinh thân, quốc độ thân, Thanh văn thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp thân và Tỳ Lô Giá Na thân. Hay đó là con đường mà Đức Phật đã vẽ ra cho tất cả mọi người cùng tiến bước, để xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no, xây dựng xã hội an lạc, thịnh vượng và xây dựng thế giới hòa bình, hiểu biết, cảm thông, chia sẻ, phát triển. Đó chính là xây dựng Tịnh độ ngay tại nhân gian này và làm được như vậy theo Phật giáo chính là bảo vệ môi sinh của nhân loại ở mức độ hoàn hảo nhất.