cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Phật giáo và dân số

(Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 73 tại chùa Phổ Quang ngày 12-7-2009)

         Chủ đề nêu ra nghe hơi lạ, kinh Phật có nói đến vấn đề này hay không, tại sao chúng ta lại đề cập. Phật dạy rằng những gì Ngài đã nói chỉ là phương tiện; còn việc chính yếu là Ngài làm cho cuộc sống con người hướng thượng và thăng hoa. Vì vậy, Đức Phật có vô số phương tiện; cho nên trước khi Phật Niết bàn, Ngài nhắc lại rằng những gì Ngài nói nên coilà phương tiện của thời kỳ đó và quốc độ đó; nhưng gặp hoàn cảnh khác, quốc độ khác thì Phật không nói như vậy. Trong kinh, Đức Phật cho biết thế giới của Phật Hương Tích chỉ thuyết pháp bằng mùi hương, ngửi mùi hương thì tâm người ở thế giới đó được thanh tịnh, giải thoát, cho nên không cần dùng ngôn ngữ. Còn ở thế giới Cực Lạc thì tâm đại chúng hoàn toàn thanh tịnh, vì từ tâm và bản nguyện của Phật Di Đà truyền sang cho đại chúng thanh tịnh. Như vậy, ở Cực Lạc, Phật Di Đà thuyết pháp bằng tâm.

Còn ở Ta bà thì Phật Thích Ca tùy theo chỗ, tùy theo bộ tộc khác nhau mà Ngài khai thị bằng ngôn ngữ tương ưng để họ có thể tiếp nhận mà thực tập trong cuộc sống. Đức Phật cho biếtnhững gì Ngài nói ví như lá trong tay, có nghĩa là những gì Phật nói có giá trị nhất định ở thời đó; còn những người ở nơi khác, ở hoàn cảnh khác thì có thể dùng để tham khảo, rút kinh nghiệm. Và Đức Phật khuyến cáo rằng phải phát huy trí tuệ và đối mặt với cuộc sống để giải quyết mọi việc được tốt đẹp; đó là trách nhiệm của chúng ta. Vì vậy, Phật nói rằng một người chỉ giải quyết được một phần việc, nhiều người sẽ có được nhiều sáng kiến khác nhau. Cho nên, Ngài đề cao sáng kiến của tập thể vẫn hơn quyết định cá nhân.

Ở thời đại của chúng ta, vấn đề khủng hoảng dân số được đặt ra, vì với cái đà tăng trưởng dân số quá nhanh, có thể trong vòng 50 năm cho đến 100 năm nữa, thức ăn sẽ bị cạn kiệt và còn biết bao vấn đề nan giải khác nữa. Lúc đó, chúng ta không còn hiện hữu trên cõi đời này, nhưng thế hệ con cháu của chúng ta phải đối mặt; cho nên chúng ta không thể làm ngơ. Cả thế giới quan tâm đến vấn đề bùng nổ dân số, thì chúng ta cũng cần quan tâm, hãy xem sự tu chứng của mình như thế nào để có thể có sự đóng góp chung cho nhân loại. Thiết nghĩ ý kiến riêng của tôi không đủ, phải có ý kiến của Tăng Ni và Phật tử để đưa ra sáng kiến tốt nhất cho xã hội chúng ta và cho cả nhân loại.

Vấn đề dân số ở thời kỳ Phật tại thế đương nhiên chưa được đặt ra, vì lúc đó, dân số thế giới có khoảng vài trăm triệu; nhưng ngày nay dân số toàn cầu tăng lên đến 6 tỷ người, tạo thành cuộc khủng hoảng đáng sợ. Vì vậy, chúng ta cần có sự đóng góp nhất định cho sự tồn tại của nhân loại.

Có người cho rằng cần hạn chế sinh đẻ để dân số không tăng; nhưng từ đó lại tạo thành một bất cập khác và một số tôn giáo khác đã không đồng ý giải pháp này, nhất là tôn giáo nhất thần cho rằng không được hạn chế sinh đẻ, vì làm như vậy là trái với ý của Thượng đế. Họ bảo Thượng đế cho sinh bao nhiêu đứa con thì phải sinh thôi. Nếu không nghe lời Thượng đế thì đó là một cái tội, không được lên thiên đường.

Ngoài ra có một tư tưởng cực đoan khác, chủ trương hạn chế tối đa sự tăng trưởng dân số, chỉ nên có khoảng hơn 1 tỷ người thôi và mỗi người chỉ sinh một con. Nếu áp dụng giải pháp này thì Trung Quốc gặp khủng hoảng khác nữa, vì theo tập quán của nước này, chỉ có con trai mới nối dõi dòng giống được. Cho nên họ cố gắng sinh con trai, lỡ sinh con gái thì phạm tội lớn, nên phải giết chết đứa bé từ trong bào thai. Nhưng nếu chỉ được sinh một con trai để nối dòng họ, thì Trung Quốc sẽ có đàn ông nhiều hơn đàn bà; đó cũng là một vấn nạn. Như vậy, chúng ta thấy giải quyết vấn đề này lại nảy sinh ra vấn đề khác, chỉ ở trong cái vòng luẩn quẩn không thoát ra được.

Trong khi đó, một số nước văn minh tự hạn chế việc sinh con; nên dân số nước họ không tăng; còn các nước lạc hậu lại để phát triển tự do việc sinh đẻ thì sẽ xảy ra tình trạng là những người không tốt sẽ tăng, điều này cũng nguy hiểm. Nước Pháp trước năm 1945 có 50 triệu dân, nhưng nay dân số cũng vậy, họ cố giảm, không cho tăng dân số. Nhưng họ lại gặp vấn nạn khác là những người nhập cư bất hợp pháp vào nước Pháp hơn mười mấy triệu người. Những người này bị chính phủ đặt ra ngoài lề xã hội, không được đối xử tốt, không được giáo dục tốt, lại tạo thành một khủng hoảng nữa. Ở Mỹ, thời xưa, dân da đen là nô lệ, nhưng số dân này tăng nhanh và ngày nay, Tổng thống Mỹ cũng da đen; nên họ lo ngại. Bản thân một người hạn chế sinh đẻ thì không đủ để giải quyết được vấn đề tăng dân số, mà đó là việc của toàn xã hội cho đến của toàn cầu, vì đây là một vấn đề lớn, nên sự đóng góp của chúng ta rất cần.

Người Nhật có ý kiến hay, theo họ, sinh con gái, hay con trai không quan trọng; nhưng phải sinh con tốt, con giỏi. Vì theo tinh thần Phật dạy, nam nữ bình đẳng, không phân biệt giới tính, không phân biệt giai cấp. Ở Nhật có điều đặc biệt là không nhất thiết phải lấy họ cha. Tôi thấy Thủ tướng Sato thời tôi học ở Nhật, ông này thật sự mang họ Kishi rất nổi tiếng. Dòng họ này có ba anh em thay nhau làm Thủ tướng. Ông Thủ tướng đầu của dòng họ này cũng xuất thân từ Tịnh độ tông, nên ông có mục tiêu xây dựng nước Nhật theo mô hình Cực lạc, nghĩa là mô hình xã hội văn minh. Ông nói Phật Di Đà trước khi về Cực lạc thì nơi đó không phải là Cựclạc, nhưng với trí tuệ của Phật Di Đà, Ngài đã chuyển đổi thế giới đó thành Cực lạc. Người Nhật chủ trương tu Tịnh độ là phải xây dựng nơi mình đang sống theo đạo Phật, tức xây dựng xã hội tốt; nhưng xây dựng bằng cách nào? Ông Thủ tướng này có người em trai rất giỏi và lập gia đình với dòng họ Sato không có con trai, cho nên người em đã chuyển qua dòng họ Sato. Như vậy, người Nhật chủ trương thành lập gia đình hoặc sử dụng họ của chồng, hoặc họ của vợ, không lo sợ tuyệt tộc. Việc nối dòng giống của họ bằng cách có trí tuệ, không giết con gái mà cũng không sợ tuyệt tộc. Cách thứ hai của sự kế thừa là ai nuôi dưỡng nên người thì lấy theo họ của người đó, có thể là họ cha hay họ mẹ. Nếu cha mẹ không có khả năng nuôi con, mà để cho người khác nuôi thì khi đứa bé trưởng thành, nó kế thừa theo dòng họ của người nuôi nó. Người Nhật chấp nhận giải pháp này ổn thỏa, có thể lấy họ cha hay họ mẹ tùy theo sự bàn bạc của gia đình một cách hợp lý. Nếu hai gia đình có một con trai và một con gái, thì một đứa lấy họ cha, một đứa lấy họ mẹ. Họ giải quyết hợp tình hợp lý, không bắt buộc phải theo truyền thống, nên mọi người thấy an tâm và tạo được một xã hội quân bằng. Dân số Nhật không tăng, lúc tôi tu học ở đó thì dân số của họ là 110 triệu, nay cũng vậy.

Không có trí tuệ, không có được biện pháp thỏa đáng mà cứ nhất định phải hạn chế dân số thì cũng không giải quyết được vấn đề mà còn phải đối đầu với nhiều khó khăn khác xảy ra. Còn chủ trương không hạn chế sinh sản và nghĩ rằng phải có con để nối dòng, rồi sanh đẻ bừa bãi cũng rất nguy hiểm, tạo thêm nhiều vấn nạn cho xã hội. Phật tử phải có trí tuệ để nhận thấy được việc nào lợi ích cho bản thân mà cũng góp phần tốt đẹp cho xã hội thì theo đó mà làm. Một số nước theo các tôn giáo chủ trương rằng trời cho sao thì chịu vậy, rồi sinh đẻ tràn lan, không nuôi nổi và đẩy chúng ra lề đường lang thang, gây nguy hiểm cho chúng và tạo bất an cho xã hội. Xã hội Nhật không có tình trạng này, vì họ sắp xếp hợp lý nên xã hội an lạc. Còn sắp xếp không hợp lý, thì nhiều vấn đề sẽ xảy ra, cho đến chiến tranh bùng nổ cũng do sự sắp xếp không hợp lý. Thật vậy, nếu trong xã hội có nhiều thành phần lang thang, bất mãn; khi chúng còn nhỏ thì chỉ gây rối trật tự xã hội, nhưng nếu chúng tập hợp thành từng nhóm nhỏ có người lớn phía sau xúi bẩy, sai khiến thì sẽ làm loạn, sẽ chống đối, cho đến lật đổ chính quyền. Biết bao vấn đề phức tạp phát sinh do sự sắp xếp bất cập.

Muốn sắp xếp trật tự, từ cái gốc phải hợp lý. Tôi hỏi một người bạn vì sao anh không lập gia đình. Anh ta nói vì mắc bệnh di truyền, anh khổ nhiều vì bệnh, nên không muốn nỗi khổ này tiếp diễn trong xã hội cho thế hệ kế tiếp. Theo Phật, có trí tuệ, chúng ta biết cái gì khổ thì không để cho nó tiếp diễn là có sự tính toán hợp lý. Tôi gặp một người khác bị cận thị nặng 9 độ lập gia đình với người vợ cận thị 13 độ. Họ sống với nhau nhưng không sinh con, vì sinh con thì nó có thể sẽ bị cận hơn 20 độ; đó là sự sắp xếp có trí tuệ. Hoặc có người bị nhiễm chất độc, nếu sinh con sẽ bị dị tật, nên họ tuyệt đối không sinh con, để không làm con khổ và không làm xã hội nhức nhối thêm.

Thiết nghĩ người có trí tuệ học Phật không làm nhẹ gánh nặng cho cuộc đời thì thôi, chứ không làm xã hội xấu thêm. Người không có gia đình, hay không sinh được con tốt, nhưng giàu có, nên họ hiến tặng tài sản cho các cơ quan từ thiện, hoặc họ chọn những đứa trẻ tốt của gia đình nghèo để nuôi dưỡng, cho học hành thành tài, đưa vô xã hội những con người tốt. Hoặc đỡ đầu cho những sinh viên học giỏi, thiếu điều kiện kinh tế, giúp những người này thành đạt sự nghiệp là kỹ sư, bác sĩ, bác học, v.v...…, nghĩa là họ đã đóng góp cho an sinh xã hội. Nhờ vậy, nhân tài luôn tấn xuất, không cần đứa trẻ là dòng họ, dòng máu của mình, nhưng cần đưa vô xã hội những nhân tài càng nhiều càng tốt; đó chính là sự thể hiện cao độ tinh thần vị tha vô ngã theo Phật giáo. Từ căn bản này, người ta tự đóng góp xây dựng xã hội văn minh; vì xã hội văn minh thì cần phải có con người văn minh.

Tu theo tinh thần Đại thừa, mặc dù cá nhân ta không làm việc xấu, nhưng sai lầm của người khác tạo thành sự tác hại cho xã hội thì chúng ta cũng phải gánh chịu. Ví dụ ta không nghiện, nhưng các con nghiện ở thành phố đông tạo thành tệ nạn cướp giật trên đường phố, làm chúng ta cũng bị bất an. Vì vậy, chúng ta phải có sự đóng góp cho xã hội, nhưng nếu không có trí tuệ thì việc làm lại trở thành có hại. Ví dụ, ta có lòng trắc ẩn thương người, thấy người nghèo đói bệnh hoạn liền nghĩ giúp đỡ. Nhiều người đi chùa đổi sẵn tiền lẻ để cho người ăn xin; hậu quả là chúng ta làm cho đất nước mình có nhiều ăn mày, vì họ lười biếng, không chịu làm việc. Chính lòng tốt của chúng ta tạo thành tệ nạn xã hội. Hoặc người ưa phóng sinh chim hay cá. Nếu có trí tuệ sẽ thấy những con chim, con cá bé xíu không ai bắt ăn thịt chúng, đáng lẽ chúng không bị bắt, nhưng tại ta phóng sinh nên họ bắt để bán cho ta thả. Tu thiếu trí tuệ như vậy là đóng góp cho người đi bắt chim cá, đóng góp cho người ăn xin. Chùa ở Nhật Bản không có người ăn xin; vì họ dạy người dân lòng tự trọng, ai cũng muốn phấn đấu vươn lên, không muốn nhận sự giúp đỡ. Nếu có nhận giúp đỡ thì sau này, họ cũng phải giúp đỡ lại để trả ơn. Vì vậy, học sinh nghèo nhận được học bổng, lớn lên nó làm ra tiền cũng giúp lại học sinh khác; nghĩa là thế hệ này tiếp nối thế hệ khác một cách tốt đẹp, kinh Duy Ma gọi tinh thần đó là vô tận đăng, tiếp nối ngọn đèn trí tuệ của Đức Phật mãi mãi bằng cách chính ta làm việc tốt và giúp cho người khác cũng làm tốt, cứ như vậy mà xã hội trở thành tốt đẹp. Người làm từ thiện với những địa chỉ có trách nhiệm, có uy tín; nhưng cũng có người thường bị rơi vô danh nghĩa từ thiện, còn bên trong có phức tạp. Chúng ta cần có suy nghĩ đóng góp cho cơ sở từ thiện Phật giáo đáng tin cậy và vận động người khác cùng hợp tác để phát triển những việc làm đúng đắn, tạo thành xã hội an định. Việc làm có trí tuệ chỉ đạo như vậy, thì phải gặt hái được kết quả tốt.

Bản thân ta tốt và nên giáo dục những thành phần tệ nạn xã hội cho họ tốt để ngăn chận những hạt nhân xấu này phát triển, vì hạt giống xấu dễ phát sinh và dễ tăng trưởng. Thể hiện tinh thần này, kinh Duy Ma dạy rằng Bồ tát thông đạt Phật đạo và nhập thế là nhắm vô đối tượng xấu ác để giúp đỡ, giáo dục họ thành người tốt. Không có Bồ tát thì chúng ta phát tâm Bồ đề, làm việc của Bồ tát là đi vào đời, xem người nào nên giúp đỡ chúng ta sẵn lòng hỗ trợ họ.

Bồ tát có trí tuệ nhìn thẳng xem tại sao người xấu ác. Đầu tiên là vì họ có mặc cảm. Tôi đã từng tiếp xúc với những đứa trẻ lang thang, những người đau khổ đến mức có thể hủy hoại cuộc sống của họ. Ta có thể an ủi, giúp đỡ họ thành người tốt. Nếu giúp người tốt rồi thì họ tốt thêm cũng được, còn không giúp thì cũng không sao, vì họ đã tốt sẵn; cho nên tôi ít quan tâm đến người tốt, người giàu, người giỏi. Tôi quan tâm đến người nghèo khó, người hư hỏng nhiều hơn; vì người rơi vô hoàn cảnh xấu mà ta không kéo họ lên được thì tác hại sẽ lớn. Cứu được họ là ta đóng góp lớn cho xã hội.

Tôi cũng có đệ tử bị nghiện, hay phải làm nghề không tốt. Tôi lóng nghe họ để biết hoàn cảnh nào đẩy họ vô cuộc sống tội lỗi. Hiểu được tâm trạng bức xúc của họ có thể sinh liều mạng, thì đưa ra được lời khuyên hợp lý phát xuất từ tâm từ bi và sự tỉnh giác của mình, họ sẽ nghe theo, thay đổi cuộc đời, sống hoàn lương, cứu họ rakhỏi vũng bùn mà cũng giúp cho gia đình họ được hạnh phúc và đóng góp một phần an ổn cho xã hội. Có những gia đình mà cha mẹ bất hòa, đứa con phải nhận tất cả nỗi khổ niềm đau của cha mẹ, nó phải bỏ nhà đi. Cha mẹ nó ghét nhau cũng truyền qua nó, nhìn trong sâu thẳm tâm nó là địa ngục khổ đau trong một gia đình bề ngoài thấy như yên ấm. Tại sao cha mẹ dạy mà nó không nghe, lại nghe hàng xóm. Tôi bảo người mẹ nên tụng kinh và bình tâm suy nghĩ lại. Cha mẹ phải lóng nghe đứa con trước, xem nó suy nghĩ gì, muốn gì, làm được gì. Phần lớn cha mẹ bắt ép con cái những điều mà nó không muốn làm, thì nó bứt phá là điều tất yếu. Vì vậy, phương cách giáo dục sai lầm đã đẩy đứa con vào hoàn cảnh khổ và nó sẽ làm khổ người khác, như vậy là tạo dây chuyền khổ cho xã hội. Phật tử có trí tuệ phải tháo gỡ từ cái gốc, nghĩa là làm cha mẹ, làm bạn đừng khó tính bắt buộc con cháu nghe mình, mà không tìm hiểu tâm trạng nó đang ẩn chứa nỗi niềm gì.

Nếu chúng ta có cơ hội nên tham gia, đóng góp để hóa giải những vấn đề trong xã hội, làm như vậy là ta đãgóp phần làm xã hội an lạc và cao hơn nữa là xây dựng Tịnh độ ở Ta bà. Có người hỏi tôi tại sao không về Cực lạc. Tôi trả lời rằng tôi tu Pháp Hoa có suy nghĩ Đức Phật Thích Ca là giáo chủ cõi Ta bà, mình ở đây được Đức Phật Thích Ca nuôi dạy trưởng thành, thì tại sao mình lại bỏ Phật Thích Ca đi dễ dàng như vậy, cảm thấy giống như mình phụ ơn giáo dưỡng của Ngài. Vì vậy, tôi lập nguyện:"Cõi Ta bà thị hiện độ sinh”.

Với chí nguyện ở lại Ta bà để giáo hóa độ sinh, mở ra cho tôi cái nhìn sáng trong giáo lý Phật, phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16, là Phật thường ở Ta bà thị hiện sanh thân trong nhiều quốc độ, nhưng tiếc cho chúng ta không thấy Ngài. Từ đó, trên bước đường tu, tôi tìm Phật không ở trong vô hình, nhưng tìm trong sanh thân là các thiện tri thức. Những người che chở, dìu dắt, dạy dỗ tôi trưởng thành trên bước đường tu, tôi coi đó là sanh thân của Phật. Đây là ý quan trọng của người tu Pháp Hoa Bổn môn, khi ta quyết định ở lại thế giới này với Phật thì sẽ thấy được Phật thị hiện sanh thân giúp đỡ ta. Thấy Phật bằng niềm tin, hay thấy được người tốt là Phật, đây chính là thái độ của người Tây Tạng (Trung Quốc) đi tìm Phật sống. Trên bước đường tu, chúng ta tầm sư học đạo, tìm Phật sanh thân là Phật sống mới giúp chúng ta được. Phật sống này có thể hiểu là Hóa thân Phật, nghĩa là một người tu có tâm thanh tịnh thì Phật hiện thân vào họ, có thể ví như mặt trăng hiện trên mặt nước, nơi nào có nước sẽ có bóng trăng: Thiên gian hữu thủy thiên gian nguyệt. Nơi nào có người tu thanh tịnh thì Phật huệ sẽ rọi vào họ, nên họ phát huệ và họ là thiện tri thức mà chúng ta có thể theo học được rất nhiều điều hay.

Vì vậy, Phật Thích Ca nhập diệt rồi, Phật giáo truyền sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, v.v..., ở đâu cũng có các bậc Thánh Tăng, cao Tăng, có chư Tổ nối tiếp ngọn đèn chánh pháp của Phật. Đó chính là Hóa thân của Phật Thích Ca. Ý này được kinh Duy Ma diễn tả rằng 500 công tử dâng 500 cây lọng báu cúng dường Phật, biến 500 cây lọng này che khắp tam thiên đại thiên thế giới và dưới mỗi cây lọng có vô số Hóa Phật. Tôi thấy ở Pháp, Mỹ, Úc, châu Phi, v.v...… nơi nào cũng có Phật. Nhìn thấy như vậy, tôi cảm thấy mình không cô đơn ở Ta bà, nên cũng không cần về Tịnh độ, ở đây làm đạo cũng thấy vui. Vì Đức Phật dạy trong kinh Duy Ma rằng hành phi đạo tức thông đạt Phật đạo. Điều này lạ, ở Cực lạc tu một kiếp không bằng ở Ta bà tu một ngày. Ở đây có việc cho chúng ta làm. Ở Cực lạc toàn thượng thiện nhân, mình thất nghiệp. Cho nên, tôi quyết định xây dựng xã hội mình sống, biến nó thành Cực lạc.

Tóm lại, đối với những người có bệnh di truyền thì ta khuyên họ đừng sinh con để nối cái dòng di truyền chẳng ích lợi gì. Họ nên tu để diệt được ác nghiệp, cuộc sống sẽ thanh thản, vui tươi. Nếu họ lập gia đình có vợ con thì vui ít mà khổ nhiều; còn niềm vui diệt được nghiệp thì không có khổ. Người bệnh hoạn sinh con cũng bị bệnh, họ lo cho bản thân còn không xong mà lo cho con nữa làm sao nổi. Chúng ta dùng trí tuệ góp ý, xây dựng họ thành người tốt và đưa vào xã hội thêm nhiều người tốt.

Hạn chế việc sinh đẻ không phải là vấn đề của chúng ta; nhưng bằng tâm từ bi và trí giác, chúng ta xét thấy người nào đáng sinh con và người không nên sinh con. Người đáng có con mà khuyên họ đừng sinh là làm tiêu mất hạt giống tốt cho xã hội. Gặp người đáng tu mới cho tu. Điển hình như Thiền sư Vạn Hạnh nhận thấy Lý Công Uẩn không thể làm người xuất gia, mà ông có khả năng làm vua; nên Ngài đã dạy dỗ ông trở thành ông vua tài đức làm được nhiều việc lợi ích cho nước nhà. Gặp ai cũng khuyên đi tu thì xã hội sẽ ra sao. Đừng hiểu lầm rồi cho tất cả những người bệnh tật, côi cút vô chùa tu thì chùa sẽ trở thành cái gì. Sinh thời, Hòa thượng Thiện Hoa thường khẳng định rằng chùa không phải là trại mồ côi, không phải là viện dưỡng lão; vì thời đó người ta quan niệm chùa như vậy.

Cần có lớp người tốt, tài đức hy sinh làm việc cho đạo. Có trí tuệ để thấy rõ người đáng giúp và giúp cách nào, thấy rõ nên dạy pháp gì thích hợp với người để họ sống tốt cho đời, làm đẹp cho đạo. Đó chính là xây dựng xã hội tốt, xây dựng thiên đường ngay tại đây. Trong thời kỳ bùng nổ dân số, người tốt thì nên tiếp tục sinh cho xã hội những con người có lợi cho đời. Còn người không tốt thì nên chuyển hóa thân tâm cho tốt rồi mới tính đến việc sinh con. Mong Tăng Ni và Phật tử có những suy nghĩ hay để góp phần cho xã hội được tốt đẹp trong mọi lãnh vực của cuộc sống.