cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Tổng luận lược giải kinh Duy Ma

I- NHẬN XÉT TỔNG QUÁT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Sau khi thành đạo, từ Bồ đề đạo tràng đến Ta La song thọ trải qua hơn ba trăm hội, Phật dùng tuệ giác quan sát thật tướng các pháp và thực trạng xã hội, Ngài đưa ra nền giáo lý trong sáng, toàn bích.

Tuy giáo pháp của Phật có tám mươi bốn ngàn pháp môn, nhưng chính yếu vẫn là tinh thần "Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Phật dạy chúng ta phát triển nếp sống đạođức thanh cao và phát huy trí tuệ thấy đúng như thật để hành động phù hợp với sự chuyển biến của quy luật khách quan. Chính Đức Phật đã tìm thấy chân lý ngay trên thế gian và thể hiện chân lý trong cuộc sống dưới mọi tình huống.

Trên bước đường hoằng hóa độ sanh, tùy theo sinh hoạt của từng nước, Ngài dạy chúng Tăng nhận thức đúng đắn về thực trạng xã hội và đưara pháp tu tương ưng, để hoán chuyển tâm chúng hội an trú thanh tịnh ngay trong lòng cuộc đời. Và xa hơn, họ nương theo Phật pháp, cải tạo nếp sống xã hội trở thành thiện mỹ hơn.

Với nhân cách siêu việt, trí tuệ tuyệt luân, việc làm thánh thiện lợi lạc cho đời, cùng với hàng đệ tử mô phạm Thánh chúng, Phật đã đáp ứng yêu cầu cần thiết của xã hội lúc bấy giờ. Ngài đã là hạt nhân thu hút mọi tầng lớp người quy ngưỡng. Một đạo Phật hiện hữu sống động, cần thiết tất yếu như vậy đã nhẹ nhàng đẩy lùi tư tưởng lạc hậu của Bà la môn giáo.

Phật tại thế, mọi người sống hạnh phúc bên Ngài, thì vấn đề tìm hiểu về Phật tất nhiên không cần đặt ra. Tuy nhiên, khi Ngài Niết bàn, không có người có đạo đức và tri thức như Ngài để dìu dắt chúng hội. Từ đó, người ta bắt đầu suy nghĩ, tìm hiểu về Phật.

Mọi người đều có chung suy nghĩ rằng cần góp nhặt lời Phật dạy để truyền trao cho nhau để tu hành. Trong lần kiết tập này, dĩ nhiên không thể trùng tuyên đầy đủ lời Phật dạy, cũng như không được mọi người tán thành hoàn toàn.

Thật vậy, những chứng nhân quan trọng đã từng trực tiếp nghe Phật thuyết pháp như Xá Lợi Phất, hay Mục Kiền Liên không còn hiện diện, các ngài đã nhập Niết bàn. Ngoài ra, lịch sử cũng ghi rõ đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất Phú Lâu Na và năm trăm Tỳ kheo không đồng ý với những gì được kiết tập. Các ngài đã rời bỏ cuộc họp đến hang động khác để trùng tuyên lại.

Theo tôi, những gì các vị La hán hiểu và góp nhặt được trong kỳ kiết tập lần đầu chỉ là một phần tư tưởng của Phật. Chính Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại rằng pháp của Ngài nói cho chúng ta chỉ là lá trong tay khô chết, không phải là chân lý. Ý này được xác định trong kinh Văn Thù rằng suốt bốn mươi chín năm thuyết phap, Phật chưa nói một lời và kinh Pháp Hoa diễn tả các pháp vắng lặng không thể dùng lời nói để diễn tả. Như vậy, điều Phật nói ra mà Ngài còn khẳng định là phương tiện. Huống chi cái chúng ta nắm bắt phương tiện chỉ là "Phương tiện nằm trong phương tiện”, ắt hẳn còn cách xa chân lý Phật hơn nữa.

Dưới nhãn quan của Phật giáo Đại thừa, ý nghĩa tiềm tàng bên trong kinh mà chúng ta cần vận dụng mang lợi ích thiết thực cho đời sống, ví như lá trong rừng. Nó hoàn toàn khác với những gì đóng khuôn trong lời Phật nói, không còn sức sống, giống như nắm lá trong tay.

Đến đây, cần đề cập thêm về vấn đề liên quan đến sự hưng vong của Phật giáo Ấn Độ để hiểu rõ thêm về việc làm tác hại của người theo chủ nghĩa giáo điều. Các nhà sử học đều thắc mắc rằng Phật giáo sinh hoạt mạnh mẽ khi Phật tại thế và đến thời kỳ Phật giáo phát triển, sức sinh động của đạo Phật cũng còn mạnh. Nhưng đột nhiên, Phật giáo bị suy đồi cho đến mất tích ở Ấn Độ. Tại sao lại xảy ra tình trạng tệ hại như vậy; trong lúc ở những nước khác, Phật giáo cũng gặp sự chống phá mạnh mẽ mà vẫn duy trì tồn tại được.

Theo tôi, Thượng tọa bộ thời ấy cứ khư khư giữ nguyên những gì mà họ cho là đúng theo Phật dạy. Họ không chịu nhìn vào thực trạng xã hội để đáp ứng yêu cầu của thời đó, nên đã trở thành đối kháng với Bà la môn giáo. Giáo đoàn sống đóng khuôn trong giáo điều, nên giới trí thức trong xã hội từ từ rời bỏ Phật giáo. Dưới mắt Bà la môn hay xã hội, tu sĩ Phật giáo trở thành những người ăn hại và dần dần bị rơi vào quên lãng.

Trái với chủ trương thoái hóa bị tàn lụn dần của Thượng tọa bộ, giáo nghĩa Đại thừa với tinh thần phóng khoáng, đã dung hóa và thu nhiếp những gì Phật dạy Bà la môn, cư sĩ, hay nói chung cho xã hội phát triển. Vì vậy, giáo nghĩa Đại thừa chẳng những không đối kháng với Bà la môn giáo, mà còn gần gũi lợi ích, nên được họ tiếp thu để phát triển thành tân hưng Bà la môn gọi là Ấn Độ giáo.

Tóm lại, tinh thần cục bộ, tiêu cực của Phật giáo Tiểu thừa đã bị Bà la môn giáo xóa bỏ. Ấn Độ giáo ra đời kết hợp văn minh Vệ Đà với tinh ba của giáo nghĩa Đại thừa. Tinh thần Phật giáo Đại thừa tiềm ẩn trong Ấn Độ giáo ngày nay được thể hiện qua lời phát biểu của cố Thủ tướng Nerhu. Ông tự coi mình theo đạo Phật, mặc dù thực sự ông là tín đồ của Ấn Độ giáo. Hoặc đọc các tác phẩm của triết gia danh tiếng Ấn Độ như Tagore, cũng thấy man mác giáo nghĩa Đại thừa hàm chứa bên trong.

Trở lại vấn đề thời kỳ kiết tập lần đầu của ngài Ca Diếp, chúng ta nhận thấy thời đó chưa soạn thành kinh điển, chỉ truyền thừa bằng cách truyền khẩu. Sau đó, vì trình độ hiểu biết của mỗi người khác nhau, tuy cùng một lời dạy của Phật lại nảy sanh những nhận thức khác biệt. Đó là nguyên nhân phát sanh A Tỳ Đàm hay Luận tạng, tạo thành giáo lý tam tạng.

Kinh tạng và Luật tạng ghi lại cuộc sống của Phật và lời dạy của Ngài. Luận tạng giải thích lời Phật. Sự giải thích này thay đổi khác nhau tùy theo xuất xứ, hoàn cảnh quốc độ và trình độ nhận thức của từng Luận sư. Từ đó, dẫn đến sự hiểu biết và nhận thức về lời dạy của Phật không đồng nhất, mở đầu cho thời kỳ A Tỳ Đạt Ma phát triển. Nhiều bộ phái Phật giáo được hình thành, nhưng chung quy có hai bộ phái chính là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ.

Thượng tọa bộ gồm những người lớn tuổi, bảo thủ, ít thích cải cách sửa đổi, thường quen sống theo lối mòn cũ, cảm thấy bình ổn hơn. Họ chủ trương y kinh, y luật Phật dạy, không được thêm bớt. Trái lại, Đại chúng bộ gồm lớp người trẻ có tư tưởng tiến bộ, chủ trương kế thừa tư tưởng của Phật, nhưng lấy ý của đại chúng làm chánh và tùy theo yêu cầu của đại chúng mà vận dụng, phát triển giáo lý phục vụ đại chúng. Từ căn bản dựa trên ý thức về xã hội, về đại chúng làm chuẩn, khác với chủ trương giáo điều của Thượng tọa bộ, kinh điển của Đại chúng bộ phát triển những điểm mới lạ hơn kinh của Thượng tọa bộ biên soạn.

Tư tưởng của hai bộ phái này bắt đầu lan rộng mạnh mẽ thành hai con đường. Con đường Nam truyền Phật giáo đi xuống phía Nam Ấn Độ và qua Sri Lanka biên soạn thành tạng kinh Pali. Con đường Bắc truyền Phật giáo từ Trung Ấn Độ đi ngược lên phía Bắc, truyền sang Afghanistan, Trung Đông, Trung Á đến Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam.

Tư tưởng của Thượng tọa bộ truyền xuống phía Nam được tiếp nhận đầy đủ nguyên vẹn, vì nơi đây nền văn hóa còn thấp hay chưa có văn hóa. Ngược lại, tư tưởng Phật giáo của Đại chúng bộ từ Trung Ấn lên Bắc Ấn gặp ngay tư tưởng triết học có sẵn thuộc văn hóa Hy Lạp, Ai Cập, La Mã.

Thật vậy, sau Phật nhập diệt bốn trăm năm, Alex­an­dre chinh phục Ấn Độ và mang đến tư tưởng Hy Lạp, một nền triết học lớn của nhân loại thời ấy. Chính trong môi trường của văn minh Ấn kết hợp với văn minh Hy Lạp, đã sản sanh ra tư tưởng Phật giáo Đại thừa, tạo nên một cái nhìn mới về Phật giáo dưới dạng triết học.

Đại thừa Phật giáo, hay Phật giáo phát triển chú trọng đến việc vận dụng tinh thần của kinh, diễn tả chân ý của Phật bằng lối văn thời đại. Sách giáo lý diễn tả theo văn xưa không còn thích hợp, được thay bằng kinh điển Đại thừa đương đầu với tư tưởng ngoại đạo. Đó là chân tinh thần Phật giáo phát triển, truyền bá đến nơi nào cũng tiếp thu những nét sáng đẹp của văn hóa địa phương để phát triển tinh ba của địa phương ấy. Sức sống của Phật giáo phát triển giống như dòng nước ngọt trôi chảy đến mọi nơi, nuôi sống cây cỏ xanh tươi mà không tàn phá những kỳ hoa dị thảo.

Với sự hài hòa tốt đẹp, Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo phát triển lần lần khác biệt Phật giáo gốc, đặt giá trị truyền thừa Phật giáo trên tinh thần hơn là kế thừa hình thức. Phát triển nội dung và xóa bỏ hình thức chính là nguyên nhân phát xuất bộ kinh Duy Ma cũng như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa.

Theo sự nghiên cứu lịch sử, những bộ kinh này thực sự được hình thành vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Vì vậy, các học giả thế giới không cho rằng kinh này do Phật nói ra và ngài A Nan kiết tập để lại cho chúng ta. Ngày nay, các học giả đều đồng ý rằng kinh điển Đại thừa được biên soạn sớm nhất trước công nguyên một trăm năm. Có người dựa vào đây để chỉ trích kinh Đại thừa không phải của Phật.

Tuy nhiên, có thể kết luận rằng tam tạng kinh điển của Phật dù thuộc hệ Nam truyền hay Bắc truyền đều không phải ghi nhận một cách chính xác trực tiếp từ lời nói của Phật. Ý kinh thuộc về phần thuyết giảng của Phật, nhưng văn kinh do người đời sau ghi lại. Mỗi khi thuyết pháp, Phật ứng theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh địa phương mà nói pháp khác nhau. Trong chúng hội, người nghe pháp trình độ không đồng, nên sức tiếp thu và ghi nhận phải khác nhau, là điều tất yếu.

Kinh thuộc hệ Nam truyền với lối văn mộc mạc, bình dân diễn tả sự kiện thực tế hơn. Kinh điển của Phật giáo phát triển thì văn lý hàm chứa ý nghĩa sâu sắc và chải chuốt, rất linh hoạt như kinh Hoa Nghiêm có đến bốn mươi lăm ngàn bài kệ.

Ngoài ra, xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung, Phật giáo Đại thừa thường chia giáo lý Phật thành hai phần là Phương tiện môn và Chân thật môn. Giáo lý thuộc Chân thật môn không thể dùng ngôn ngữ diễn tả. Phật cũng thường nhắc trong kinh Pháp Hoa rằng các pháp tướng thường tự vắng lặng, chỉ có thể dùng tâm mà trực nhận. Chính vì sự khó khăn trong việc chỉ dạy cũng như trực nhận chân thật pháp, Phật khởi lòng đại bi, tạm dùng giáo lý phương tiện. Phật thường ví pháp phương tiện đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống. Sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn xanh tươi theo bốn mùa.

Tinh thần Đại thừa nhằm triển khai sức sống của lá trong rừng. Hay nói cách khác, nhìn sự vật hiện hữu, sinh hoạt đúng như thời đại và phân tích, vận dụng giáo lý cho phù hợp với xã hội đang sống. Còn giáo pháp Phật thuyết ra chỉ là phương tiện hướng dẫn chúng ta tiếp cận chân ly. Phát huy tinh thần này, Phật giáo Đại thừa cốgắng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa hàm chứa bên tronglời nói của Phật, cố diễn tả chân ý của Phật. Quan niệm bảo thủ thì chỉ ghi nhận lời Phật và luôn luôn trân trọng giữ nguyên, không thay đổi.

Người thể hiện tinh thần tìm hiểu nghĩa lý thâm sâu của kinh điển Đại thừa một cách chân thành là Trần Huyền Trang. Ngài là Pháp sư đời Đường, mà vua Đường Thái Tông quý mến, nhận làm em. Ngài tha thiết với việc tìm hiểu chân ý của giáo pháp Đại thừa, đã vượt mọi khó khăn, hiểm nguy gian khổ sang Ấn Độ cầu pháp.

Trước ngài, kinh Duy Ma đã có năm bản và bản gần nhất của ngài Cưu Ma La Thập dịch, cách ngài một trăm năm. Ngài Huyền Trang cảm nghĩkinh Duy Ma còn hàm chứa nhiều nghĩa sâu xa bên trong mà Cưu Ma La Thập chưa dịch được. Vì Cưu Ma La Thập là người Quy Tư, nên không hiểu rõ văn Trung Quốc, phải nhờ Tăng Duệ, Tăng Triệu sửa kinh, thì ý không còn đúng nữa. Điều này thôi thúc ngài Huyền Trang ra đi tìm áo nghĩa kinh, trải qua mười bảy năm ở Ấn Độ. Trở về, ngài dịch lại bản kinh Duy Ma có tính cách học thuật. Bản của ngài Cưu Ma La Thập dịch mang tính chất tín ngưỡng.

Học giáo lý Đại thừa không nắm được chân ý của kinh, chúng ta dễ thế tục hóa hay không tưởng hóa đạo Phật, trở thành xiển đề. Chính Phật cũng xác định rằng Ngài hiện hữu trên cuộc đời để dìu dắt chúng sanh từ bờ mê đến bến giác. Và kinh không phải là cứu cánh, chỉ là phương tiện nhằm chuyển đổi ta từ con người phàm phu vô minh trở thành bậc sáng suốt. Tất cả kinh Đại thừa nói chung đều thể hiện tính chất này rõ rệt và kinh Duy Ma cũng không nằm ngoài mục tiêu ấy.

II. VỊ TRÍ CỦA KINH DUY MA TRONG HỆ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Kinh Duy Ma là bộ kinh Đại thừa có sớm nhất, phát sanh từ ngả rẽ của bộ phái Phật giáo và mười điều phi pháp ở thành Tỳ Da Ly.

(Nguyên vì Đức Thích Tôn diệt độ sau khoảng một trăm năm, các vị Tỳ kheo xuất thân từ dòng họ Tỳ Xá Ly đề xướng ra mười hành vi chủ trương là thích hợp với giới luật của Tỳ kheo. Mười hành vi đó như sau: 1- Diêm tịnh: Căn cứ vào giới luật, các Tỳ kheo không được để đồ ăn cách đêm. Nghĩa là các thứ đồ ăn thông thường không được để đến ngày hôm sau rồi lại ăn. Nhưng nếu đồ ăn đó đem ướp với muối, thì vẫn có thể được dùng ngày hôm sau. 2- Chỉ tịnh: Về bữa ăn củaTỳ kheo phải ở lúc chính ngọ. Nếu đúng lúc đang đi giữa đường, thì bữa ăn có thể được dùng ở quá giờ ngọ một chút, nghĩa là mặt trời đã xế bóng chừng độ hai chủ, mỗi chủ một thước năm tấc ta. 3- Tụ lạc gian tịnh: Tỳ kheo sau khi ăn rồi,nếu ở trước giờ ngọ, tới chốn tụ lạc khác xin được thức ăn, vẫn có thể được thụ dụng. 4- Trụ xứ tịnh: Một tháng hai kỳ các Tỳ kheo phải tụ tập ở một trụ xứ nào đó để làm lễ Bố tát. Nếu trụ xứ quá hẹp, có thể được phân chia làm hai nơi để làm lễ Bố tát. 5- Tùy ý tịnh: Quyết nghị của đoàn thể xuất gia cần phải toàn viên tận tập để giải quyết. Nếu trường hợp không thể xuất tịch được, sau khi giáo đoàn quyết nghị, sẽ có thể đem những quyết nghị đó thông cáo sau. 6- Cửu trụ tịnh: Có thể noi theo vào tiền lệ, nghĩa là noi theo thể lệ của người trước đã làm. 7- Sinh hòa hợp tịnh: Sau giờ ngọ, các Tỳ kheo không được ăn phi thời, nhưng có thể được dùng nước hòa lẫn với sữa, không cần phải để sữa lắng xuống. 8- Bất ích lũ ni sư đàn tịnh: Tọa cụ của Tỳ kheo kích thước bề dài, bề rộng phải theo đúng như quy định trong giới luật. Nếu là tọa cụ không có viền xung quanh, có thể được dùng quá khuôn khổ đã định. 9- Thủy tịnh: Tỳ kheo không được uống rượu, nhưng vì trường hợp bệnh hoạn, dùng để làm thuốc, có thể pha lẫn với nước để uống. 10- Kim tiền tịnh: Tỳ kheo vốn dĩ không được cầm tiền. Nếu bất đắc dĩ, có thể được cầm tiền bạc và xúc tích tiền bạc.

Mười điều trên thực ra vi phạm giới luật. Đứng về phương diện nghiêm khắc của giới luật mà giải thích là phi pháp. Nhưng đứng về mặt khoan đại mà giải thích, thì thích hợp với giới luật.

Các Tỳ kheo ở phương Đông đứng về phe tự do ma giải thích, nên dung hứa mười điều kể trên. Trong lúc đó, ở phương Tây có một học giả tinh thông giới luật là trưởng lão Da Xá du hành tới thành Phệ Xá Ly, gặp ngày Bố tát. Ngài nhận thấy các Tỳ kheo thuộc dòng Tỳ Xá Ly khuyến hóa tín đồ cúng dường tiền bạc. Ngài rất kinh ngạc.

Vì can ngăn việc đó, ngài đối trước tín đồ mà tuyên cáo: "Việc Tỳ kheo cầm tiền và nhận tiền là một cấm giới nghiêm trọng trong giới luật”, để cảnh cáo các Tỳ kheo.

Các Tỳ kheo cho rằng trưởng lão Da Xá làm phương ngại sự cúng dường của tín đồ và lăng mạ đại chúng. Họ bắt ngài phải xin lỗi trước đại chúng và tín đồ. Nhưng ngài không nghe theo, trốn vào thành, đối trước dân chúng công nhiên phát biểu mười hành vi phi pháp như trên. Đại chúng thấy vậy liền tập Tăng tác pháp sấn xuất (đuổi ra khỏi chúng, theo luật Phật, nếu một Tỳ kheo nào đem lỗi xấu của đại chúng công bố trước tín đồ sẽ bị xuất chúng).

Trưởng lão Da Xá trở lại phương Tây, cảm thấy giới luật của Phật bị suy tàn. Ngài quyết đi vận động các bậc trưởng lão để giải quyết mười điều phi pháp. Các trưởng lão kết luận mười điều kể trên là phi pháp.

Ngược lại, các Tỳ kheo thuộc Đông bộ không phục tùng nghị quyết này. Họ cùng nhau hội họp tại nơi khác và cũng để kiết tập kinh điển, gọi là Đại kiết tập hay Đại chúng kiết tập) (Trích Lược sử Phật giáo Ấn Độ tr. 89 của HT. Thích Thanh Kiểm).

Có thể nói kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa "Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.

Thật vậy, kinh Duy Ma phát xuất từ cách nhìn khách quan về xã hội. Bằng trí Bát Nhã của hệ Đại thừa rọi vào lòng xã hội sau Phật nhập diệt một trăm năm, tư tưởng Duy Ma đã ra đời tại thành Tỳ Da Ly và manh nha phát triển trong giới trí thức. Đứng trên lập trường Bát Nhã quán chiếu sự vật đúng như thật, Đại chúng bộ nhận thấy thành Tỳ Da Ly là trung tâm giao lưu về tư tưởng, văn hoa, thương mại. Nơi đó có năm trăm trưởng giả thuộc thành phần giàu có, trí thức. Họ là những người ưu tú nồng cốt của xã hội không thể chấp nhận tôn giáo mang tính chất lạc hậu; cũng như ngày nay hình thức khất thực không tồn tại được ở các nước văn minh.

Sự quan sát chính xác của Phật giáo Đại thừa về hiện thực xã hội ở thành Tỳ Da Ly ngày nay được chứng minh rõ rệt. Theo khảo chứng căn cư vào Đại Đường Tây Vực thuật ký của ngài Huyền Trang, các nhà khảo cổ tìm thấy nền nhà của Duy Ma và trưởng giả Bảo Tích, cùng các dấu vết lưu lại của một thành phố trù phú.

Sinh hoạt trong môi trường của nền văn hóa giao lưu, những nhà Phật giáo Đại thừa nhận chân được thực trạng của Phật giáo đang đổ dốc trong một xã hội phát triển với tư tưởng văn minh của Hy Lạp truyền xuống, cộng thêm lý luận sắc bén có sẵn lâu đời của giáo lý Vệ Đà. Vậy mà các vị trưởng lão thuộc Thượng tọa bộ lại còn quá câu nệ hình thức, tự sống khép mình trong vỏ giới luật cứng nhắc. Sinh hoạt tôn giáo đối với họ chỉ đóng khuôn vào công việc lập đi lập lại một cách đơn thuần, máy móc, là đi khất thực và truyền bá những giáo điều không còn thích hợp với xã hội văn minh.

Đối trước những tệ trạng đó, những nhà tâm huyết Đại thừa thao thức cho sự sống còn của Phật giáo. Trước trào lưu tiến hóa của xã hội, họ đã vận dụng tôn chỉ của Phật cho phù hợp với thời đại. Văn minh loài người tiến đến đâu, tri thức của Phật giáo mở rộng và chỉ đạo cho sinh hoạt thế gian đến đó. Nếu tri thức của giới Phật giáo thấp hơn xã hội, thì sẽ bị nhận chìm. Tư tưởng Duy Ma được hình thành theo tinh thần này.

Vì vậy, có thể nói kinh Duy Ma khởi đầu cho sự duy tân Phật giáo. Bộ kinh này tổng hợp toàn bộ nhận thức của cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa. Tuy nhiên, chỉ lọc lấy những phần cốt tủy của kinh và loại bỏ phần không cần thiết.

Theo lối kiến giải mới về giáo lý Đại thừa, kinh Duy Ma được xếp vào thời kỳ chỉnh lý giáo lý của Phật. Từ giáo lý khô chết sống đóng khuôn, không ích lợi gì cho xã hội, kinh Duy Ma rút ra những điểm tinh ba đem trang nghiêm cho thân tâm chúng ta để thăng hoa cuộc sống. Và rộng hơn nữa, rọi giáo lý giác ngộ vào lòng xã hội để kiến tạo xã hội văn minh, hạnh phúc, tức xây dựng một Tịnh độ ngay trên nhân gian.

Công việc chỉnh lý được thể hiện qua nội dung kinh bằng sự kiện mười đại đệ tử của Phật tiêu biểu cho mười vị Thanh văn xuất gia đều không dam đến thăm bệnh cư sĩ Duy Ma. Họ không dám đến, vì quá nể sợ nhận thức rộng lớn của Duy Ma đã đánh ngã kiến giải thấp kém của họ.

Kinh Duy Ma mượn hình ảnh mười đại đệ tử bị một cư sĩ vấn nạn để diễn tả sự thao thức của Đại chúng bộ, hay nói chung tâm trạng của hàng Tăng lữ sau khi Phật Niết bàn. Họ bước chân vàođời chạm trán với thực tế phũ phàng. Làm thế nào truyền đạo, giữ vững tư cách làm Thầy của thiên hạ, khi họ phải đối đầu với người trí thức thế gian vượt hẳn giới xuất gia về mọi lãnh vực.

Kinh Duy Ma vẽ ra câu chuyện mười đại đệ tử của Phật đã trả lời một cách lúng túng những câu hỏi của cư sĩ Duy Ma, hay phải chịu thua, cúi đầu im lặng. Ý này gợi cho chúng ta hình dung cuộc sống của tu sĩ đóng khuôn trong lớp vỏ tôn giáo, mà không sử dụng được kho tàng giáo lý của Phật quá diệu dụng, trong khi xã hội mỗi ngày một tiến triển nhanh chóng, không ngừng. Nếu cứ tiếp tục lối sống lạc hậu, quay lưng lại với xã hội, đi ngược lại đà phát triển của văn minh nhân loại, chẳng bao lâu Phật giáo sẽ bị tự đào thải ra khỏi cuộc đời.

Trước mối ưu tư đó, giai tầng trí thức chủ trương phải tổ chức lại Phật giáo có một hướng đi rõ rệt, cao thượng và lợi ích thiết thực trên nhân gian. Và kinh Duy Ma xây dựng trên tinh thần này đã hình thành hai mẫu người lý tưởng của đạo Phật: Một mẫu người tiêu biểu cho giới tu sĩ là Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và một người gương mẫu đại diện cho giới cư sĩ tại gia tu hanh đúng pháp, thể hiện được trí tuệ sáng suốt, đời sống đạo đức, làm sáng đẹp cho đạo và đời. Cả hai mẫu người xuất gia và tại gia như vậy đều có giá trị ngang nhau. Tuy hai sắc thái nhưng là một, đưa đến kiến giải cao nhất của giáo lý Đại thừa là pháp môn Bất nhị. Theo pháp Bất nhị, những gì còn chia chẻ, còn phân biệt được, thì còn nằm trong vòng đối đãi của pháp sanh diệt thế gian.

Việc vấn đáp với cư sĩ Duy Ma, tất cả đại đệ tử của Phật đều thất bại, ngoại trừ Văn Thù Sư Lợi Bồ tát. Văn Thù tiêu biểu cho giới xuất gia có tri thức tuyệt vời đã đối đáp trôi chảy mọi thắc maccủa cư sĩ. Hình ảnh này gợi nhắc hàng tu sĩ chúng ta muốn giáp mặt với đời, giáo hóa chúng sanh, ngoài đời sống phạm hạnh cao quý, còn phải trang bị sự hiểu biết chính xác. Với kiến thức thế gian và siêu thế gian, chúng ta chỉ đạo mọi việc thành công. Thực hiện được điều này, tự động xóa bỏ được sự chỉ trích tu sĩ là lớp người ăn bám.

Hình ảnh kiểu mẫu thứ hai hộ trì chánh pháp thể hiện qua cư sĩ Duy Ma. Ngài sử dụng trí tuệ sáng suốt, tùy theo hoàn cảnh và tùy theo người mà hiện thân tương ưng để mang đến an vui lợi lạc. Việc làm của Duy Ma gợi nhắc hàng cư sĩ rằng tuy lăn lóc trên mọi nẻo đường đời, nhưng tâm phải luôn hướng về Vô thượng Chánh đẳng giác, giống như như hoa sen vẫn tỏa hương thơm ngát trong vũng bùn nhơ. Cư sĩ mang tinh thần Duy Ma lấy trí tuệ và tâm từ bi làm hành trang xây dựng cho chính mình và người cùng thăng hoa, tạo dựng một xã hội an lạc giải thoát.

Tóm lại, hai hình ảnh Văn Thù và Duy Ma là hai mẫu người mô phạm lý tưởng duy trì và bảo vệ chánh pháp còn mãi trên thế gian. Nối gót theo các ngài trên bước đường tu, đi theo lộ trình của kinh Duy Ma, chúng ta không an trú Niết bàn, cũng không trước sanh tử, phải giải thoát ngay trên cuộc đời này. Nghĩa là với trí Bát Nhã quán sát, chúng ta không theo đuổi con đường hoàn toàn thế tục nhiễm ô, nhưng cũng không đi trên Thánh đạo xa lánh cuộc đời.

Chúng ta bước theo Trung đạo, tức con đường xây dựng thế giới giác ngộ, tình thương và hạnh phúc ngay trong lòng thế gian. Thành tựu được như vậy, chúng ta xứng đáng là người kế thừa của Phật hiện hữu trên cuộc đời chỉ nhằm mang ánh sáng trí tuệ và phước lạc đến cho mọi người.

III. PHIÊN DỊCH VÀ CHÚ SỚ KINH DUY MA

Kinh Duy Ma nguyên tên là Vimalakirti Nird­esa được lưu truyền từ Ấn Độ sang Tây Vực, Trung Quốc, Tây Tạng, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Đặc biệt về mặt tư tưởng, giáo lý đã biểu hiện điểm đặc sắc về văn học cho đến nghệ thuật, cũng như xã hội cho đến lịch sử giáo hội, mà ngày nay hãy còn được chú ý.

Tư tưởng Duy Ma là căn bản cho tư tưởng Trung đạo của Long Thọ và cũng là căn bản cho giáo nghĩa của các tông phái như Tịnh độ tông, Mật tông, Địa Luận tông, Thiên Thai tông, Thiền tông, Pháp Tướng tông. Tuy nhiên, đến nay thông thường người ta vẫn xem kinh này là của Thiền tông. Và thực tế thì về mặt sắc bén của giáo lý, kinh này đã phát huy được tính đại biểu về Thiền tông của Phật giáo Đại thừa. Do đó, kinh Duy Ma quan hệ chặt chẽ với Thiền tông qua suốt các quá trình truyền bá. Điều đó thấy rõ nhất ở Trung Quốc, Triều Tiên. Sau đây lược qua các điểm chủ yếu:

- Tư tưởng Trung đạo: Đây là ý nghĩa bao quát toàn bộ kinh, thực hành tư tưởng này là "Hạnh Bồ tát” như được hiển thị trong "Tận, vô tận giải thoát”, "Bất tận hữu vi, bất tận vô vi”. Toàn thể kinh toát ra tính chất của hạnh Bồ tat, đặc biệt được nói rõ trong nửa phẩm Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thăm bệnh và phẩm 11 Bồ tát đạo.

- Tinh thần giới luật: Các vấn đề "Tọa cụ” tác pháp trong khi ăn, vấn đề nam nữ căn để phát xuất từ bản vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni của Tiểu thừa giới tiến triển đến Đại thừa giới, hoặc Bồ tát học xứ. Vì kinh Duy Ma xuất hiện trong bối cảnh sau Phật nhập diệt một trăm năm. Đó là lúc mà giáo đoàn khởi xướng tư tưởng cải cách, nên kinh Duy Ma mang tinh thần phóng khoáng để triển khai vấn đề giới luật theo nghĩa của Niết bàn và Phật tánh luận.

Kinh Duy Ma được phiên dịch ra Hán văn trước sau sáu lần, hiện còn ba bản dịch sau:

1.- Chi Khiêm đời Ngô dịch "Phật thuyết Duy Ma Cật kinh” hai quyển.

2.- Cưu Ma La Thập đời Dao Tần dịch "Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh” ba quyển.

3.- Huyền Trang đời Đường dịch "Thuyết Vô Cấu Xưng kinh” sáu quyển.

Trong đó bản dịch của La Thập được phổ biến và truyền bá sâu rộng hơn cả. Về vấn đề nghiên cứu kinh Duy Ma hiện nay, vì nguyên bản tiếng Phạn không tìm thấy, nên ngoài bản dịch tiếng Tây Tạng, chủ yếu đều lấy Hán dịch làm cơ sở.

Về chú sớ, có thể nói "Chú Duy Ma” của Tăng Triệu cho đến nay vẫn được coi là tác phẩm tiêu chuẩn về giải thích kinh Duy Ma.

Ngoài ra, có "Duy Ma kinh sớ” gồm quảng sớ và lược sớ của Thiên Thai, "Duy Ma kinh Nghĩa Ký” của Tịnh Ảnh, "Tịnh Danh Huyền luận” của Gia Tường, "Thuyết Vô Cấu Xưng kinh sớ” của Từ Ân và "Duy Ma kinh nghĩa sớ” của Thánh Đức thái tử là những tác phẩm đại biểu. Trong số các tác phẩm chú sớ kể trên chỉ có Từ Ân sử dụng bản tân dịch, còn ngoài ra đều dựa vào bản cựu dịch của La Thập.

Gần đây, kinh Duy Ma đã bốn lần được dịch sang tiếng Âu Mỹ. Lần thứ nhất năm 1897 và 1898, Đại Nguyên Gia Cát đã dịch ra Anh văn, đăng tải liên tục trong The Hansei Zasshi.

Lần thứ hai do Hòa thượng Tuyền Phương Hoàn dịch ra Anh văn, đăng tải liên tục trongEastern Buddhist hoàn toàn dịch xong mười bốn phẩm.

Lần thứ ba, giáo sư Ja­cob Fischer của Trường phổ thông Trung học Nii­gala, năm Chiêu Hòa thứ 19 với sự cộng tác của Hoàng Điền Vũ Tam đã dịch ra tiếng Đức.

Lần thứ tư, năm Chiêu Hòa thứ 37, giáo sư Etienne La­motte dùng bản dịch tiếng Tây Tạng và tham chiếu bản Hán dịch của Huyền Trang đã dịch ra tiếng Pháp. Tên các dịch bản kể trên như sau :

- Bản dịch của Đại Nguyên: The Vimalakirti Nirdesa Sutra (The discourse of the Wonderous Law of Emancipation).

- Bản dịch của Tuyền Phương: The Vi­mala-kirti Sutra, Vimalakirti’s Discourse on Eman­ci­pation.

- Bản tiếng Pháp: L’Enseignement du Vi­malakirti (Vimalakirtinirdésa).

Riêng bản sau cùng của Lamotte có sử dụng đối chiếu Tây Tạng và bản Hán của Huyền Trang đã dịch và chú giải (Traduite et Annotée).