cool hit counter

Sách


Lời giới thiệu Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp
Ý nghĩa Bổn Môn Pháp Hoa Thiền định phóng quang và đàm kinh nhập diệu
Nguyện hương Đoạn phiền não – tâm bình an
Đảnh lễ Phật Giàu đạo đức, giàu tuệ giác
Lễ Phật quá khứ Giới đức pháp thân
Đảnh lễ Phật hiện tại An trụ tịch diệt tướng
Lễ Phật vị lai Ý nghĩa Phật Đản theo kinh Pháp Hoa
Đảnh lễ Bồ tát Phật giáo và dân tộc Việt Nam
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh hoằng thông liệt vị Tổ sư Hoằng pháp ở thế kỷ XXI
Đảnh lễ Pháp Hoa kinh thủ hộ thiện thần Dòng chảy miên viễn của Thiền
Sám hối Đức Phật sống mãi với chúng ta
Phát nguyện Đúng như pháp tu hành là tối thượng cúng dường Phật
Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Chùa mục đồng ở Nam bộ
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ nhất Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định của mọi thành công
Ý nghĩa phẩm Pháp sư Phật giáo, con đường dẫn đến sự sống hòa bình, phát triển, an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.
Ý nghĩa phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15 Sức sống Thiền của Trần Thái Tông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16 Sống trong tỉnh giác
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17 Quan niệm về kinh tế trong Phật giáo
Ý nghĩa phẩm Phổ Môn thứ 25 Những nét đẹp của Phật giáo Lý Trần
Ý nghĩa phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 Nghệ thuật trong Phật giáo
Hồi hướng Ý nghĩa nhà lửa tam giới trong kinh pháp hoa
Ý nghĩa tụng thủ hộ thần chú Ý nghĩa lễ tắm Phật
Ý Nghĩa Quy Y Tam Bảo Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm
Năm Giới Của Người Phật Tử Tại Gia Ý nghĩa Vu Lan  
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Pháp Hoa Và Tụng Bổn Môn Pháp Hoa Kinh Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa
Ý Nghĩa Lạy Hồng Danh Sám Hối Nhứt Phật thừa
Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư Quán tứ niệm xứ
Ý Nghĩa Niệm Phật Di Đà Tứ chánh cần
Lời nói đầu Tứ như ý túc
I. Lý do chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền
Ngũ căn ngũ lực
II. Ý nghĩa của sự khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày thành đạo của Phật Di Đà là ngày 17 tháng 11 và kết thúc vào ngày thành đạo của Phật Thích Ca là ngày mùng 8 tháng 12 Thất Bồ đề phần
III. Kết luận Thúc liễm thân tâm
Lời tựa Tùy duyên  
Tổng luận Thanh tịnh hóa thân tâm
Pháp hội 1 : Tam Tụ Luật Nghi Nhứt thiết Chúng sanh Hỷ kiến Bồ Tát
Pháp hội 2: Vô Biên Trang Nghiêm Đà la ni Chánh kiến
Pháp hội 3 : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Tam quy và pháp niệm Phật
Pháp hội 5: Vô Lượng Thọ Như Lai Hài hòa để cùng tồn tại và phát triển
Pháp hội 6: Bất Động Như Lai Hạnh khiêm cung và bát kỉnh pháp
Pháp hội 7: Mặc Giáp Trang Nghiêm An lạc hạnh  
Pháp hội 8: Pháp Giới Thể Tánh Vô Sai Biệt Những kinh nghiệm giảng dạy
Pháp hội 9 : Đại Thừa Thập Pháp Kinh nghiệm giảng dạy Kinh Hoa Nghiêm
Pháp hội 10: Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn Một số đề tài gợi ý cho những bài thuyết giảng của Tăng Ni sinh Khóa Giảng sư
Pháp hội 11: Xuất Hiện Quang Minh & Pháp hội 12 : Bồ Tát Tạng Nổ lực tự học để kế thừa và phát huy được tinh ba của Thầy, Tổ.
Pháp hội 14: Phật Thuyết Nhập Thai Tạng Một số phương hướng cho ngành Hoằng pháp
Pháp hội 15: Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Vài suy nghĩ về Hoằng pháp trong thời hiện đại
Pháp hội 16: Bồ Tát Kiến Thiệt Hoằng pháp trong thế kỷ 21
Pháp hội 17: Phú Lâu Na Nhà Hoằng pháp và giáo dục tiêu biểu trong thế kỷ XX
Pháp hội 18: Hộ Quốc Bồ Tát Hoằng pháp ở thế kỷ 21(thuyết giảng ngày 20 – 24 tháng 6 năm 2007)
Pháp hội 19: Úc Già Trưởng Giả Điểm chung nhứt của Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền
Pháp hội 20: Vô Tận Phục Tạng Mô hình Hoằng pháp tại nước nhà trong thời đại ngày nay
Pháp hội 21: Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La Tư cách của vị trụ trì
Pháp hội 23: Ma Ha Ca Diếp Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại
Pháp hội 24: Ưu Ba Ly Ý nghĩa trụ trì
Pháp hội 25: Phát Thắng Chí Nguyện Trụ trì, người giữ chùa
Pháp hội 26: Thiện Tý Bồ Tát Kinh nghiệm làm trụ trì
Pháp hội 27 : Thiện Thuận Bồ Tát Tam pháp ấn
Pháp hội 28: Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Nét đẹp của Phật giáo Nam Tông Khơ Me
Pháp hội 29: Ưu Đà Diên Vương Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện đại
Pháp hội 30: Diệu Huệ Đồng Nữ Điều thiết yếu của người tu : Sức khỏe tốt, trí sáng suốt và trái tim nhân ái
Pháp hội 31: Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di An trụ pháp tịch diệt
Pháp hội 32: Vô Úy Đức Bồ Tát Hoằng pháp và trụ trì
1. Lời tựa Đạo đức hành chánh
2. Khái niệm về kinh Duy Ma Ba điểm quan trọng đối với tân Tỳ kheo
3. Quán chúng sanh theo kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (Thuyết giảng tại chùa Phổ Quang)
4. Bất Nhị pháp môn trong kinh Duy Ma Ý nghĩa thọ giới (thuyết giảng tại chùa An Phước)
5. Ý nghĩa phẩm Phật Hương Tích trong kinh Duy Ma Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ : Học, tu và làm việc
6. Quan niệm về đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm Truyền trao giới pháp và lãnh thọ giới pháp đúng như pháp.
7. Ý nghĩa lễ Phật theo kinh Hoa Nghiêm Giới tánh Tỳ kheo
8. Ý nghĩa phương tiện theo kinh Pháp Hoa Lời tựa       
9. Ý nghĩa thí dụ ba xe và nhà lửa trong kinh Pháp Hoa Tiểu sử
10. Ý nghĩa hóa thành dụ trong kinh Pháp Hoa Giới tánh tỳ kheo  
11. Pháp sư của kinh Pháp Hoa Hoằng pháp và trụ trì  
12. Ý nghĩa Long Nữ dâng châu trong kinh Pháp Hoa An lành và tĩnh giác
13. An Lạc Hạnh theo kinh Pháp Hoa Nghĩ về sự thành đạo của Đức Phật
14. Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất Mùa Xuân đọc kinh Hoa Nghiêm
15. Cảm niệm về Bồ Tát Phổ Hiền Sự lớn mạnh của Phật giáo song hành với thành phố phát triển 300 năm
Lời tựa Khai Thị 2009 Những quan niệm về Đức Phật
Xuân trong Phật đạo Thế giới tâm thức và thế giới hiện thực
Phước Lộc Thọ Pháp phương tiện
Hạnh xuất gia Tụng kinh, lạy Phật, sám hối và thiền quán
Vai trò người phụ nữ trong Phật giáo Đức hạnh của vị Tỳ kheo
Hạnh nguyện Quan Âm Hành trình tâm linh : nẻo về vĩnh hằng của người tu
Tàm Quý Ý nghĩa Phật Đản PL. 2542 - 1998
Họa phước vô môn Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật
An cư kiết hạ Nương nhờ đức từ của Tam bảo
Phật giáo và vấn đề tác hại của thuốc lá Ý nghĩa Kim Cang thừa trong Phật giáo
Phật giáo và bảo vệ môi trường Cảm nghĩ về Đức Phật A Di Đà
Phật giáo và thiếu nhi Ý nghĩa Vu Lan 1998
Nói không với ma túy Bồ Tát Đạo
Đạo đức ở tại gia Mùa An cư : sáu thời tịnh niệm
Mỉm cười trong đau khổ Tinh thần Phật giáo Đại thừa
Phật giáo và dân số Phật giáo hướng về tương lai
Kính lão đắc thọ Ý nghĩa lễ Vu Lan PL 2542 - 1998 (thuyết giảng tại trường hạ chùa Hội Khánh)
Hành trì giới luật Chơn thân – huyễn thân
Ý nghĩa Vu lan Tư cách của vị trụ trì  
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ tát Tâm từ bi của Đức Phật
Nối vòng tay lớn 9 tuần tu học đồng đăng Cửu Phẩm Liên Hoa
Niềm vui của tuổi già Những việc cần làm trong 3 tháng An Cư
Kiến thức và trí tuệ Những việc cần làm trong 3 tháng an cư Suy nghĩ về linh hồn trong Phật giáo
Tình người Hoằng pháp   
Hạnh nguyện Bồ tát hay Bồ tát đạo Tìm hiểu ngôn ngữ của Đức Phật
Tha lực và tự lực Mùa Xuân trên đất Bắc
Hạnh nguyện Dược Sư Lời tựa        
Ơn Thầy Ý nghĩa cầu an
Vượt qua mặc cảm Hạnh nguyện Phổ Hiền
Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm Bản chất Niết bàn
Nghề nghiệp chân chánh Niềm tin chân chánh
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Hóa giải hận thù
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm Phật giáo và hòa bình thế giới
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm Quốc thái dân an
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM Giải tỏa oan ức
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
Vững trước khen chê
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo Ý nghĩa sức mạnh hòa hợp
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm Âm siêu dương thạnh
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
Thực tập nhẫn nhục
  II - Bồ tát Thập Trụ Thành công và thất bại
 III - Bồ tát Thập Hạnh Chiến thắng chính mình
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng Thân cận người trí
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh Sống hạnh viễn ly
VI - Bồ tát Thập Định Ý nghĩa bờ bên kia
VII - Bồ tát Thập Thông Hương thơm đức hạnh
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn Tòa án lương tâm
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI Củng cố niềm tin
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo Giá trị cuộc sống
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo Giáo dục con cái
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo Vượt qua tật bệnh
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già Đền ơn đáp nghĩa
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát Thân phận con người
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo Sức mạnh của ý chí
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di Quan niệm về Tịnh Độ
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa Cư trần lạc đạo
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn Làm mới cuộc sống
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ Lời tựa        
   11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo Ăn chay lợi cho sức khỏe và tâm linh
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử Chuyển hóa sanh thân thành pháp thân
   13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc tại Việt Nam
   14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị Tổ sư người Việt Nam của Phật giáo Việt Nam
   15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế Mật tông tại Việt Nam
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng
   17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc Phật giáo đi vào cuộc sống
   18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang Sự hồi sinh của Phật giáo Ấn Độ
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di Sức mạnh hòa hợp
   20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo Tác động hỗ tương giữa thân và tâm
   21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa Tận dụng phương tiện hiện đại trong việc hoằng pháp
   22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La Tứ chánh cần  
23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát Tu thiền tại Việt Nam
24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân Vai trò của ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại
25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ Ý nghĩa hóa thân Phật thuyết pháp
26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La Ý nghĩa kệ dâng y
28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu Ý nghĩa tập trung phân thân
27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại Ý nghĩa tịnh độ
29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên Cầu nguyện mùa vu lan
30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ Cư sĩ Phật giáo
31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để Đạo đức Phật giáo trong tương lai
32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh Điểm chung nhứt của Phật giáo nam truyền và bắc truyền  
33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn Giới luật của người Phật tử tại gia
34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc Bồ đề quyến thuộc
35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Mối tương quan với thế giới siêu hình
36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông
CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN Trồng căn lành và sám hối
16. Niết bàn theo kinh Pháp Hoa Lợi ích của an cư kiết hạ
17. Giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa Tứ niệm xứ, tứ chánh cần
18. Những điều kiện tu Bồ Tát đạo Mùa xuân vĩnh hằng
19. Ngôi chùa tâm linh Kiến trúc Phật giáo
20. Hành trình về chân linh Kiến trúc Phật giáo  
21. Tu tâm Niềm tin của người phật tử Việt Nam
22. Canh tâm điền Sự an lạc trong gia đình
23. Đường về Yên Tử Báo đáp ơn nghĩa sinh thành
24. Nếp sống của một vị danh tăng Quan niệm về tịnh độ của kinh Di Đà
25. Ý nghĩa Phật Đản Pl.2538 (Tứ Nhiếp Pháp) Tam pháp ấn  
26. Ý nghĩa lễ đức Phật thành đạo Tinh thần từ bi hỷ xả, con đường tốt nhất đi đến hòa bình, phát triển và an lạc cho nhân loại
27. Phật giáo Việt Nam đang hướng về phía trước trên tinh thần vô ngã vị tha Từ bi và hòa bình trong Phật ngọc
28. Xuân hoan hỷ Tình yêu và giới tính theo tinh thần Pháp Hoa
29. Xuân trong cửa thiền Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
30. Xuân của hành giả Pháp Hoa Xuân trong cửa đạo
Lời tựa lược giải kinh Pháp Hoa Bồ Tát Thích Quảng Đức, một bậc danh tăng siêu việt của thế kỷ 20
Lịch sử kinh Pháp Hoa Cái chết đối với người phật tử
Kinh đại thừa vô lượng nghĩa Giáo dục ở tự viện
Phẩm 1: Tựa Giới định tuệ
Phẩm 2: Phương tiện Khắc phục nghiệp, giữ chánh niệm, trụ chánh định
Phẩm 3: Thí dụ Khởi nghiệp mưu sinh theo Phật giáo
Phẩm 4: Tín giải Lễ Phật theo bổn môn Pháp Hoa
Phẩm 5: Dược thảo dụ Ngôi chùa tâm linh
Phẩm 6: Thọ ký Nhập không môn, vào vô lượng nghĩa định
Phẩm 7: Hóa thành dụ Nữ giới Phật giáo và sự kết nối toàn cầu
Phẩm 8,9: Ngũ bá đệ tử thọ ký, thọ học vô học nhơn ký Pháp phục của tăng ni Việt Nam
Phẩm 10: Pháp sư Phật giáo và môi trường sinh thái  
Phẩm 11: Hiện bảo tháp Phật giáo và phù đổng Thiên Vương
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa Thâm nhập không môn
Phẩm 13: Trì Trụ định, hành trang tối thiểu của người tu
Phẩm 14: An lạc hạnh Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng
Phẩm 15: Tùng Địa Dũng Xuất Tu vô lượng nghĩa kinh, sống trong vô lượng nghĩa định, thâm nhập hội Pháp Hoa.
Phẩm 16: Như Lai thọ lượng Vô lượng nghĩa kinh và vô lượng nghĩa xứ tam muội
Phẩm 17: Phân biệt công đức Xây dựng đạo đức của người tu
Phẩm 18: Tùy hỷ công đức Yếu nghĩa của phẩm pháp sư, kinh Pháp Hoa
Phẩm 19: Pháp sư công đức Hướng đi của Phật giáo Đông Nam Á trước ngưỡng cửa thế kỷ 21
Phẩm 20: Thường bất khinh Bồ Tát Những điều tâm đắc về hoằng pháp ( thuyết giảng tại Bình Định)
Phẩm 21: Như Lai thần lực Ý nghĩa Phật đản PL. 2550-2006
Phẩm 22: Đà La Ni Mỹ thuật Phật giáo
Phẩm 23: Dược Vương Bồ Tát bổn sự Vai trò của người phụ nữa trong kinh Hoa Nghiêm
Phẩm 24: Diệu Âm Bồ Tát Những tư tưởng hòa bình, hòa hợp của Phật Giáo Việt Nam
Phẩm 25: Phổ môn Đức Phật hằng hữu trong mỗi chúng ta
Phẩm 26: Diệu Trang nghiêm vương bổn sự Vai trò của Tăng già trong thời hiện đại
Phẩm 27: Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát Phật giáo trong nền toàn cầu hóa
Phẩm 28: Chúc lụy Giáo dục Phật giáo
Preface Một niệm tín giải trong kinh Pháp Hoa
Lời tựa lược giải kinh Duy Ma Ý nghĩa cùng tử và dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa
Tổng luận lược giải kinh Duy Ma Tịnh độ
Phẩm 1: Phật quốc Hóa thành dụ
Phẩm 2: Phương tiện   Phật giáo Nam tông vá Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phẩm 3: Thanh văn Phật giáo trong lòng nhân dân miền Nam
Phẩm 4: Bồ Tát Vị trí của Pháp sư Huyền Trang trong Phật giáo
Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh Xuân về trên cõi Tịnh
Phẩm 6: Bất tư nghì Vãng sanh cực lạc
Phẩm 7: Quán chúng sanh Cầu siêu bạt độ
Phẩm 8: Phật đạo Công đức của kinh Pháp Hoa
Phẩm 9: Nhập bất nhị pháp môn Nghệ thuật trong Phật giáo  
Phẩm 10: Phật Hương Tích Hoằng pháp ở thế kỷ 21
Phẩm 11: Bồ Tát đạo An cư dưỡng tánh - Thị phi phủi sạch
Phẩm 12: Kiến Phật A Súc Giữ giới và quán chiếu với tứ Thánh đế
Phẩm 13: Pháp cúng dường Gắn tâm với Đức Phật, với giáo pháp và Hiền thánh tăng
Phẩm 14: Chúc lụy Bốn pháp giải thoát
Lời tựa           Gạn sạch phiền não, nghiệp chướng, trần lao
Lịch sử Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Sám hối nghiệp chướng
Ý nghĩa Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa Pháp Hoa chân kinh
Ý nghĩa phẩm Tựa thứ I Ý nghĩa 12 đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Ý nghĩa phương tiện và chân thật Vũ trụ quan theo Phật giáo
Ý nghĩa Thí Dụ Sống an lạc, chết siêu thoát
Ý nghĩa phẩm Pháp Sư thứ 10 Phật lực, pháp lực và gia trì lực của chư Tăng
Ý nghĩa phẩm An Lạc Hạnh thứ 14 Quan niệm về đức Phật theo kinh Pháp Hoa  
Ý nghĩa phẩm Bồ Tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm Pháp Phật và an toàn giao thông
Ý nghĩa phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu Đức Phật của chúng ta
Ý nghĩa phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17, phẩm Pháp Sư công đức thứ 19 Đạo đức Phật giáo
Bồ Tát hạnh: Dược Vương Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Diệu Trang Nghiêm Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát Bồ tát hạnh theo kinh Pháp Hoa
Lời tựa           Mùa xuân của hành giả phát tâm bồ đề
Pháp Hội 33 : Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện Những điều tâm đắc về kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 34 : Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát Ý nghĩa Phật Đản PL 2543 - 1999
Pháp Hội 35 : Thiện Đức Thiên Tử Kinh nghiệm hoằng pháp  
Pháp Hội 36 : Thiện Trụ Ý Thiên Tử Tìm hiểu xã hội học Phật giáo
Pháp Hội 37 : A Xà Thế Vương Tử Theo dấu người xưa
Pháp hội 38: Đại Thừa Phương Tiện Những điều cần làm trong mùa An cư
Pháp Hội 39 : Hiền Hộ Trưởng Giả Bốn bậc trưởng lão được kính trọng
Pháp Hội 40 : Tịnh Tín Đồng Nữ Trở về viên minh tánh
Pháp Hội 41 : Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp Điều kiện để có kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 42 : Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Vai trò của trụ trì trong giai đoạn hiện tại  
Pháp Hội 43 : Phổ Minh Bồ Tát Ý nghĩa an cư kiết hạ
Pháp Hội 44 : Bửu Lương Tụ Bồ tát quả môn
Pháp Hội 45 : Vô Tận Huệ Bồ Tát Mùa an cư - tiến tu tam vô lậu học
Pháp Hội 46 : Văn Thù Thuyết Bát Nhã Công việc của Tỳ kheo chân chánh
Pháp Hội 47 : Bửu Kế Bồ Tát Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ
Pháp Hội 48 : Thắng Man Phu Nhân Bất biến, tùy duyên
Pháp Hội 49 : Quảng Bác Tiên Nhân Bàn về nghi lễ
Pháp Hội 50 : Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm Tu hành đúng như pháp là tối thượng cúng dường
Pháp Hội 52 : Bửu Nữ Chọn pháp tu an lạc
Pháp Hội 53 : Bất Thuấn Bồ Tát Phát huy chân linh
Pháp Hội 54 : Hải Huệ Bồ Tát Nghĩ về Phật giáo Nhật Bản
Pháp Hội 55 : Hư Không Tạng Bồ Tát Ý nghĩa phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa
Pháp Hội 56 : Vô Ngôn Bồ Tát Bồ đề tâm  
Pháp Hội 57 : Bất Khả Thuyết Bồ Tát Đức Phật trong nền văn minh Ấn Độ
Pháp Hội 58 : Bửu Tràng Bồ Tát Một chuyến đi về miền đất Phật
Pháp Hội 59 : Hư Không Mục Giác Ngộ với thiên niên kỷ 3
Pháp Hội 60 : Nhựt Mật Bồ Tát Suy nghĩ về số mệnh trong Phật giáo
Pháp Hội 61 : Vô Tận Ý Bồ Tát Thiền trong đời thường
Lời tựa  Hướng về Thánh tích của Phật giáo
Tiểu sử   Lời tựa           
Thọ giới, tu hành, nỗ lực thâm nhập dòng thác trí tuệ Tam vô lậu học  
Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội Quý nhứt trên đời
Thức ăn tinh thần của người tu Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng  
Thực tu, cảm hóa được chư thiên và quần chúng Sinh hoạt trong mùa An cư  
Trau dồi giới đức, siêng tu tam vô lậu học Suy nghĩ về ý mã tâm viên  
Lời tựa    An lạc hạnh   
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2539 -1995 Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ  
Tam vô lậu học An cư kiết hạ   
Quý nhất trên đời Cơm Hương Tích  
Những việc làm trong mùa mưa của chư Tăng Bồ tát đạo   
Ý nghĩa Vu lan PL. 2539 - 1995 Mùa An cư sáu thời tịnh niệm  
Nhìn về thế kỷ 21 Tinh thần Phật giáo Đại thừa  
Xuân Pháp Hoa Nhân duyên - căn lành  
Hướng về tương lai Chơn thân - huyễn thân  
Ý nghĩa Niết bàn Chín tuần tu học, đồng đăng cửu phẩm Liên hoa  
Internet, những nỗi lo mới Những việc cần làm trong ba tháng An cư  
Ý nghĩa Phật Đản PL. 2540 -1996 Hành trang của người xuất gia: căn lành và Phật hộ niệm  
Cảm nghĩ về hoài bão của Đức Phật Tiếp nối sự nghiệp của Đức Phật  
Phật giáo và thực tiễn cuộc sống Trở về viên minh tánh  
Sinh hoạt trong mùa An cư Theo dấu người xưa  
Suy nghĩ về ý mã tâm viên Những điều cần làm trong mùa An cư  
Suy nghĩ về hoằng pháp Tu tâm  
An lạc hạnh Bốn bậc trưởng lão được kính trọng  
Tam vô lậu học : Giới-Định-Tuệ Bồ tát quả môn   
An cư kiết hạ   Hành trang của người xuất gia: đức hạnh và trí tuệ  
Cơm Hương Tích Mùa An cư - tiến tu Tam vô lậu học  
Ý nghĩa lễ Vu lan Bất biến, tùy duyên  
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2540 - 1996 Công việc của Tỳ kheo chân chánh  
Ơn nghĩa đồng bào Phát huy chân linh  
Hướng về những người con tương lai của đất nước Bàn về nghi lễ  
Hãy đến với Chương trình "Hiểu và Thương" Sáu pháp hòa kỉnh trong mùa An cư  
Lòng từ của Bồ tát Quan Âm Đại thừa Phật giáo  
Bồ đề tâm Tu trên ngũ uẩn thân  
Suy tư của người Phật tử về những vấn đề lớn Trụ pháp và lực gia bị của Phổ Hiền  
Đầu tư - vấn đề nan giải Phát huy sức mạnh của Tỳ kheo trẻ: học, tu và làm việc  
Những điều tâm đắc trên đường về Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Lấy từ bi xóa hận thù Hài hòa, con đường an lành  
Thuận lợi và nguy cơ Nếp sống của người tu  
Lá thư Tổng Biên tập Con đường giải thoát  
Lá thư Xuân (trích Nguyệt san GN số 10) Kinh Đại Bảo Tích pháp hội 59: Hư không mục  
Ý Xuân Ý nghĩa sám Pháp Hoa  
Lá thư Xuân (trích Báo GN số 41) Phật giáo Nam tông  
Những suy nghĩ về Hội nghị kỳ 5 khóa III Trung ương Giáo hội Đạo lực
Năm mới với niềm hy vọng mới Năm đặc điểm của người tu
Trách nhiệm và chức vụ Ý nghĩa Tam vô lậu học
Thành quả của Đại hội Phật giáo TP. HCM kỳ V Pháp tu trong ba tháng An cư
Sự đi lên của Phật giáo miền Trung Hướng đi giải thoát
Hướng phát triển tốt đẹp trong mùa An cư Hạnh an lạc
Hướng về ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7 Tỉnh giác là chơn giác
Lễ Vu lan - ngày đền ơn đáp nghĩa của Đông phương Ý nghĩa xuất gia  
Thương tiếc danh tăng An cư và hạnh đầu đà
Ý nghĩa lễ Vu lan PL. 2541 - 1997 Cảm niệm Phật A Di Đà
Mừng 52 năm, một chặng đường phát triển của đạo pháp Cùng giúp nhau hoàn thiện tư cách người xuất gia
Vấn đề trẻ hóa lãnh đạo Hành đạo tùy duyên
Phật giáo Việt Nam, một tương lai tươi sáng Nhu đạo và Tịnh độ
Kết quả Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV Những kinh nghiệm tu hành
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VI (1994) Sự hộ niệm của Phật, Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ
Tham luận của Thành hội PG TP. HCM tại Đại hội MTTQ TP lần thứ VII (1999) Thể nghiệm pháp Phật
Cảm niệm cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa Tịnh độ   
Cảm niệm ân sư Trụ pháp Vô sanh
Đức Pháp chủ là biểu tượng đoàn kết các hệ phái Phật giáo Tu hành là chuyển hóa hữu lậu ngũ uẩn thành vô lậu ngũ uẩn
Cảm niệm Hòa thượng Thích Trí Thủ Vai trò của nữ tu Phật giáo trong thời Bắc thuộc
Cảm niệm về Hòa thượng Thích Thiện Hào Y báo và chánh báo
Duyên kỳ ngộ Ý nghĩa Tịnh độ   
Hồi tưởng về đức hạnh của Hòa thượng Thích Tâm Thông Tất cả pháp môn tu đều là Phật pháp
Sáng niềm tin Ngộ tánh khởi tu
Một hình ảnh khó quên trong cuộc đời hoằng pháp của tôi Theo dấu chân Phật   
Cảm niệm ân sư (Kỷ niệm lễ chung thất Hòa thượng Thích Trí Đức) Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức
Những kỷ niệm với Hòa thượng Thích Thiện Châu Những khởi sắc của Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
Nghĩ về Hòa thượng Thích Thanh Kiểm Trau dồi giới đức, phát triển tuệ lực
Tưởng niệm Ni trưởng Huê Lâm Tu đúng pháp
Ni sư Huỳnh Liên Tâm đức và tuệ đức
Nghĩ về Ni trưởng Như Hòa nhân ngày Tiểu tường An cư là tịnh hóa thân tâm
Lời nói đầu   An trú bây giờ và ở đây
Hoằng pháp Tăng trưởng đạo lực
Những điều tâm đắc về hoằng pháp Đi theo dấu chân Phật và các bậc tiền nhân
Kinh nghiệm hoằng pháp Tâm là Diệu pháp, thân là Liên hoa
Hoằng pháp theo nhân duyên Tu là chuyển nghiệp
Ý nghĩa thuyết pháp Thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học.
Giáo dục và hoằng pháp Nương lực Phổ Hiền Bồ tát để tiến tu
Lời tựa      Sống vô ngã vị tha
Ý nghĩa kinh hành niệm Phật Trí tuệ và đạo đức là sức mạnh của người tu
Ý nghĩa tĩnh tâm Tinh thần tùy duyên và bất biến
Lục hòa Làm cho đất nước cũng là làm cho Phật giáo
Sáu pháp ba la mật Bình thường tâm thị đạo và ngôi chùa tâm linh
Tịnh độ theo kinh Duy Ma Học hiểu giáo lý đúng đắn và ứng dụng có hiệu quả vào cuộc sống tu hành
Tam minh Phát huy đạo đức và trí tuệ làm đẹp cho đạo tốt cho đời
Hồi hướng theo kinh hoa nghiêm Ngủ trong tỉnh thức
Xử thế của đạo Phật Sự gắn bó giữa Tăng Ni và Phật tử là điều cần thiết
Tam bảo Nhận ra con người thực của mình để tiến tu
Nhập thế của đạo Phật Thầy hiền, bạn tốt là yếu tố quyết định mọi thành công
Tứ hoằng thệ nguyện Ý nghĩa hồng danh sám hối
Xuân Di Lặc Đoạn phiền não - tâm bình an  
Báo hiếu theo kinh vu lan Giàu đạo đức, giàu tuệ giác  
Phật giáo và pháp luật Giới đức Pháp thân  
Khái niệm về giới luật của người phật tử tại gia An trụ tịch diệt tướng  
Ý nghĩa xuất gia Lắng tâm, tịnh niệm  
Ngọn đuốc xuân Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh  
Ngũ uẩn Ngũ ấm ma trong chúng ta  
Hòa thượng Thích Quảng Đức, một con người bất tử Phát huy đạo lực  
Mông sơn thí thực Sống trong tỉnh giác  
Tính cách pháp lý của giáo hội Tấm gương sáng của Tổ Huệ Đăng  
Những thành quả của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thể nghiệm tinh ba của Phật pháp  
Ý nghĩa đại trai đàn Thỏa hiệp với thân, với bạn đồng tu và xã hội  
Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa Thức ăn tinh thần của người tu  
Lắng tâm, tịnh niệm Thực tu, cảm hóa được chư Thiên và quần chúng  
Nghĩ đến việc tốt, làm việc tốt, tâm thanh tịnh. Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm  
Ngũ ấm ma trong chúng ta Trau dồi giới đức, siêng tu Tam vô lậu học  
Phát huy đạo lực Tu bồi cội phúc  
Phước đức và trí tuệ Tùy duyên      
Tấm gương sáng của tổ Huệ Đăng Công đức của mắt và tai theo kinh Pháp Hoa  
Tâm tạo ra tất cả Ý nghĩa Nhà lửa tam giới trong kinh Pháp Hoa  
Tu bồi cội phúc Ý nghĩa phương tiện trong kinh Pháp Hoa  
Tùy duyên  

 

Trang bị tâm Quan Âm, hạnh Quan Âm sẽ nhận được lực gia bị của Quan Âm

Chúng ta đã thống nhất được Giáo hội và sinh hoạt hơn hai mươi năm là thành quả đáng quý, đáng trân trọng. Việc thứ hai là chúng ta đã nâng được trình độ kiến thức của Tăng Ni và đưa vào nề nếp tu hành. Trước kia chúng ta có nhiều hệ phái sinh hoạt khác nhau, trình độ văn hóa và kiến thức của Tăng Ni còn kém. Nhưng ngày nay, Tăng Ni phải học hết lớp 12 mới được thọ giới Cụ túc. Đó là hướng đi lên đáng mừng của sinh hoạt Phật giáo chúng ta. Tuy nhiên, còn có một điều tồn tại mà tôi muốn lưu ý Tăng Ni. Thành phố Hồ Chí Minh có trên sáu ngàn Tăng Ni, cả nước có trên bốn mươi ngàn tu sĩ, nhưng thực sự chúng ta chưa sắp xếp được việc làm rõ ràng cho bốn mươi ngàn nhà truyền giáo này. Phần nhiều chúng ta chỉ nghĩ lo tu học là chính. Chúng ta mở nhiều trường Phật học, nhiều điểm An cư, nhưng sự tu học như vậy chỉ là giai đoạn một. Giai đoạn hai là làm việc mới quan trọng hơn. Tu học để làm việc, tu học rồi vào Niết bàn thì không nên.
Xưa kia sau khi Đức Phật đắc đạo, Ngài cũng muốn vào Niết bàn. Tại sao Đức Phật muốn vào Niết bàn. Kinh nói đơn giản rằng với huệ nhãn của bậc đắc đạo, Phật nhận thấy chúng sanh, chúng sanh nghiệp và chúng sanh phiền não đáng sợ. Trên bước đường tu, chúng ta được giải thoát rồi, có đôi lúc cũng cảm thấy chúng sanh cang cường, đáng sợ và cũng muốn vào Niết bàn. Nhưng thực tế, Đức Phật không vào Niết bàn. Kinh Pháp Hoa nói rằng lúc đó mười phương Phật đều hiện ra, đây mới là điều quan trọng. Đắc đạo thiệt thì có mười phương Phật hiện ra; hay nói cách khác, ta và Phật có mối giao cảm. Đắc đạo thiệt mới thấy chúng sanh, chúng sanh nghiệp và chúng sanh phiền não đáng sợ, đó là cái thấy thứ nhất. Và cái thấy thứ hai là thấy mười phương Phật và các thiện tri thức đồng hành an ủi ta. Đắc đạo thấy mình cô đơn, cô độc trong một xã hội phức tạp, thì ít ai dám dấn thân. Nhưng kế tiếp lại thấy được trong cuộc đời có những người bạn hiểu và hợp tác với ta, thì ta mới phấn đấu đi lên.
Bước đầu thấy chúng sanh đáng sợ là thấy theo hướng tiêu cực, chán đời. Hầu như ai đi tu cũng vậy; nhưng bước thứ hai, phát Đại thừa tâm, thấy trong xấu có tốt. Hiền Thánh cũng từ trong chúng sanh nghiệp mà đạt quả vị; vì không có chúng sanh nghiệp thì cũng không có Hiền Thánh. Nhận thấy như vậy, trên bước đường hành đạo, chúng ta mới tìm thiện tri thức. Tuy nhiên, phát tâm Đại thừa, tìm cái tốt trong cái xấu. Tôi phát tâm Đại thừa, năm 1963, sống chết với Phật giáo. Lúc khó khổ thì không ai xuất hiện; đến khi thành công, anh hùng xuất hiện nhiều quá. Vì thế, tôi cảm thấy chán nản, bỏ sang Nhật tu học. Hòa thượng Thiện Hoa cũng khuyến khích tôi sang Nhật học. Thực sự lúc đó, tôi thấy chán đời, thấy cuộc đời không có gì tốt đẹp cả, không có gì đáng lưu tâm. Tâm lý ấy phát sanh, vì bước đầu cho rằng mọi thứ đều đẹp; nhưng chạm phải thực tế phũ phàng, mới chán. Tôi sang Nhật, nghĩ rằng vào chùa Tổng Trì ẩn cư, ở đó tu Thiền đến bỏ xác. Vì thế, tôi hiểu được ý của kinh nói rằng Phật Thành đạo rồi, thì Ngài muốn vào Niết bàn. Trong xã hội như thế, mình làm được gì; chỉ có cách bỏ cuộc, vì càng tích cực bao nhiêu càng dễ bất mãn lớn. Đó là kinh nghiệm mà tôi muốn nhắc các Thầy cô. Lúc đó, tôi mang tinh thần yếm thế, tiêu cực; nhưng may mắn tôi bắt gặp được tư tưởng Thiền nhập thế tích cực của Phật giáo của Nhật Bản, theo đó tìm giải thoát trong phiền trược, tìm Niết bàn trong sanh tử, tìm Tịnh độ ngay tại Ta bà. Nếu mình biết, thì sanh tử chuyển đổi thành Niết bàn; mà mình mê, thì Tịnh độ cũng là Ta bà. Nhiều người nói rằng ở ngoài thế gian tưởng nếp sống trong chùa đẹp lắm. Nhưng vào chùa rồi, thì phiền quá, mà ra đời thì mắc cỡ. Lỡ rồi, chỉ còn cách phấn đấu đi lên, cuối cùng cũng tu được. Thuở nhỏ, mới 12 tuổi, tôi cũng có tâm trạng ấy. Vì tôi đọc chuyện thấy Phật Tổ Như Lai đẹp quá, mơ thấy trong chùa cái gì cũng đẹp; nên bỏ nhà, vào chùa tu, tìm an lạc. Vào chùa rồi, chẳng thấy an lạc đâu cả. Có một lần tôi bệnh, nhớ nhà kinh khủng. Ở nhà chưa bệnh, mình giả bộ bệnh. Bà ngoại, mẹ và chị  lo lắng, chăm sóc; mình không thèm ăn món này, thì người nhà năn nỉ ăn món khác. Còn ở chùa bị bệnh, không lên quả đường ăn cơm; người ta đem chén cháo trắng với chút đường cho mình ăn. Thấy mà ngán; không ăn, thì đến giờ, họ dẹp, không cần nghe mình nói "Tôi chưa kịp ăn mà!” và nước mắt cứ thế tuôn trào. Ở chùa có cái tốt, cũng có cái buồn; nếu sống tình cảm dễ rơi vào tình trạng này. Nhưng tu lỡ rồi, phải cố gắng, từng bước vượt qua những thử thách, sẽ nhận được mọi sự tốt lành sau đó. Hòa thượng Thiện Hoa thường diễn tả ý này rằng sơn cùng thủy tận, cùng cực khổ đau sẽ thấy Niết bàn.
Trong đầu tôi nghĩ không có việc gì tốt trên cuộc đời này, thì việc tốt bắt đầu hiện ra. Còn nghĩ tốt, thì không có gì tốt cả. Tôi nhắc quý vị kinh nghiệm này mà tôi đã từng trải qua. Không vượt được những cửa ải này, sẽ rơi lại trần ai sanh tử, khổ hơn. Vì tôi nhìn lại các bạn, không chịu khổ để vượt qua mọi gian nan thử thách; họ trở lại cuộc đời, sống thực khổ sở, thọ quả báo khổ đời này và cả đời sau. Tôi cố tìm Niết bàn trong sanh tử, tìm Cực Lạc tại Ta bà và tôi đã tìm thấy được trong kinh Pháp Hoa; nên tôi rất tâm đắc áo nghĩa của bộ kinh này. Tìm Phật, Bồ tát ngay ở đây. Trong kinh ghi rằng mười phương Phật hiện ra an ủi Phật Thích Ca. Nếu hiểu Phật hiện ra thiệt cũng được. Riêng tôi, thường hiểu Phật qua cuộc sống thực tế của chính mình. Cũng một người đó, giờ trước họ đối xử tệ với chúng ta, nhưng giờ sau, họ lại tốt với chúng ta, nếu chúng ta thay đổi tư duy, hành động của mình.
Phật ở đâu tới? Phật ở trong tâm và ở bên cạnh chúng ta. Chúng ta thường cầu Phật ở xa, nhưng lại quên mất Phật trong tâm mình, Phật bên cạnh mình. Ni sư bên cạnh mình là Phật, mà mình xử sự thế nào để vị này thành ác ma. Hiểu như vậy, chúng ta hành đạo được. Trước tôi hay nghĩ rằng mình cô đơn trong một rừng người, vì không ai cảm thông với mình. Nhưng ngày nay, quý vị lại thấy tôi có rất nhiều đệ tử. Khi chúng ta ngộ đạo, nghĩa là thay đổi tâm phàm phu, Nhị thừa thành tâm Phật, thì chuyển đổi pháp lữ Đại thừa thành Phật. Phật ở xa mình cầu giúp không thấy, nhưng thực tế tôi làm đạo được, nhờ Thầy hiền bạn tốt, mà Thầy hiền bạn tốt này phát xuất từ điểm ta phải hiền tốt trước. Ta chưa tốt, không có Thầy bạn tốt. Ta tốt rồi, Thầy bạn dữ cũng trở thành tốt. Người hung dữ với ai, nhưng họ hiền với ta; tự biết ta thay đổi được tâm mình tốt. Không trách người này, chê người kia, khinh người nọ, thì người tốt sẽ đến với mình. Tôi nhắc nhở các Thầy cô nên nhớ ý này mà tu tập.
Ngộ kinh Pháp Hoa, tôi tích cực vào đời. Nơi nào khó khổ, tôi thích dấn thân đến, vì thấy ở đó dễ làm đạo hơn, nên tôi đồng cảm với Đức Quan Âm. Đa số chúng ta thích an lạc, sung sướng, tốt lành; nhưng những điều này không bao giờ đến với ta. Quan Âm không ở Tây phương Cực Lạc, nhưng lại được Phật Di Đà thọ ký sẽ thành Phật kế nghiệp Đức Di Đà sau khi Ngài nhập diệt. Tiếp theo là Đại Thế Chí Bồ tát lên làm Phật ở Cực Lạc. Chúng ta thấy Phật đã sắp xếp như vậy, nên tu theo Ngài. Thật vậy, Quan Âm luôn ở ngay Ta bà mà vị trí của ngài sẽ là giáo chủ ở Cực Lạc. Còn tất cả chúng ta muốn về Cực Lạc, nhưng lại cách xa cõi này muôn trùng vạn dặm. Bồ tát Quan Âm và Đại Thế Chí là hai ứng cử viên sáng giá nhất ở Cực Lạc; những người khác không tranh nổi. Bồ tát Quan Âm thường ở thế giới này, nên chúng ta thấy một trong mười hai lời nguyện của ngài là "Ở Ta bà vào địa phủ, Quan Âm Như Lai cứu vớt chúng sanh nguyện”.
Quan Âm ở trong Ta bà mà xây dựng Cực Lạc, là xây dựng cái gì? Cực Lạc không phải là cái nhà, nhưng là tâm Cực Lạc, tâm Tịnh độ. Vì thế, muốn xây dựng Tịnh độ, phải lo xây dựng cái tâm của chính mình. Các Thầy cô tu hành phải thể hiện việc thực tế này. Đối với tôi, xây dựng Tịnh độ là xây dựng tình người, xây dựng tinh thần vô ngã vị tha. Đa số người khổ đau, vì chấp ngã, chấp pháp. Ai tranh chấp vật sở hữu của ta, thì ta chết sống, đụng đến ta là ta không khoan nhượng. Nhưng tranh chấp như vậy, ta chỉ được cái giả danh, hư ảo; nay ta giữ chức vụ này, mai kia người khác nắm. Người xưa đã nói một khoảnh điền, thiên niên vạn chủ. Ta chẳng giữ được gì cả.
Tu hành mà chấp ngã chấp pháp là đem tâm Ta bà đặt vào Tịnh độ, thì chùa không còn tốt đẹp đối với chúng ta. Nhưng tâm Tịnh độ chúng ta sanh ra, thì đầu tiên là vô ngã theo Đại thừa; Nhị thừa dùng từ "Không, vô tác, vô nguyện”. Ở đây, ta không có ham muốn nào cả, không muốn người làm theo mình, vì mình vô ngã. Vì vậy, thấy việc mình  thích mà người khác làm, thì mình giúp. Sang Nhật tu học, ở đâu tôi cũng xem nơi đó là của mình, đóng góp công sức, nhờ thấm nhuần tinh thần vô ngã, dù tôi chỉ sống tạm rồi về Việt Nam. Trong khi các huynh đệ khác chỉ hết lòng lo cho chùa mình, ở chùa khác thì không động móng tay, chờ giờ ăn cơm và tất nhiên, kết quả đến với họ chẳng tốt đẹp gì.
Vô ngã nên phục vụ chúng sanh vô điều kiện. Ai đòi hỏi gì, chúng ta cũng giúp; làm sao không có Tịnh độ. Nghĩa là tâm Tịnh độ mới có Tịnh độ. Tu Pháp Hoa, làm theo yêu cầu của người khác, chắc chắn có Tịnh độ. Thí dụ chùa này thỉnh tôi thuyết pháp, tôi đến đây theo yêu cầu của đại chúng; đương nhiên Tịnh độ xuất hiện. Vì thế, Phật dạy rằng người tu thực, thì ở đâu cũng là Niết bàn.  Nếu quý vị thực hành được tinh thần vị tha vô ngã, sẽ thấy hay vô cùng, ở đâu cũng vui. Tôi chỉ mong có đủ thì giờ và sức khỏe để phục vụ cuộc đời, nên ở đâu tôi cũng cảm nhận sự an lành. Tâm của chúng ta là Phật, Bồ tát, thì tất cả người xung quanh ta là Phật, Bồ tát. Không có gì không phải là Phật, chúng ta mới chứng được quả vị Như Lai. Còn thấy việc không tốt trên cuộc đời này, chúng ta tự biết mình cách Phật còn xa.
Quan Âm ở tại Ta bà đủ thứ chuyện rắc rối và ngài cũng thường vào địa phủ là nơi nhiều khổ đau. Như vậy, người đau khổ và người rắc rối là đối tượng cứu độ của Quan Âm. Ý này được kinh Hoa Nghiêm dạy rằng quả Bồ đề thuộc chúng sanh. Không có chúng sanh thì Bồ tát không thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Chúng sanh thì phải có nghiệp và phiền não. Pháp Hoa ví nghiệp chúng sanh như đất có phân bón, phiền não ví cho nước. Đất mà không có phân và nước, cây cối không thể mọc lên. Chúng sanh không có nghiệp và phiền não không phải là đối tượng giáo hóa của Bồ tát. Chúng sanh giàu có, an lạc, Bồ tát đến họ để làm gì.
Tôi còn nhớ câu chuyện rất hay mà Hòa thượng Thiện Hoa dạy tôi thuở còn nhỏ. Hòa thượng nói rằng Kỳ Đà thái tử cúng dường Phật khu vườn để xây tinh xá, nên được công đức lớn và khi ông còn bị bệnh nan y hành hạ, thì được sanh lên cõi Trời. Vậy mà có người lại nghĩ rằng ông cúng dường Phật rồi chết. Thực ra Kỳ Đà mắc bênh nan y hành hạ, ông rất đau khổ, thì cái chết đối với ông rất cần thiết. Phật không độ sanh thì độ tử. Thay vì ông đau khổ, chết phải vào địa ngục; nhưng nhờ phước báo cúng dường, sau khi chết, ông được tái sanh cõi Trời Đao Lợi. Một hôm có vị Tỳ kheo bị bệnh đau bụng, Mục Kiền Liên mới lên Trời để tìm Kỳ Đà thái tử hỏi thăm cách chữa bệnh. Nhưng thái tử thấy Mục Kiền Liên thì bỏ chạy. Mục Kiền Liên mới dùng thần thông chỉ vào ông, khiến ông phải dừng lại; còn các tiên nữ thì đi mất hết. Thái tử mới hỏi ngài cần gì, xin nói nhanh lên, kẻo các cô bỏ đi hết rồi. Điều này cho thấy giải nghiệp rồi, hết phiền não, thì họ không đến với ta nữa.
Ai đến với tôi cũng than khổ quá, không có người nào nói sướng quá. Có phiền não và nghiệp mới tới. Bồ tát phải nghĩ giải nghiệp và phiền não cho chúng sanh và giúp được, họ mới đến. Hành Bồ tát đạo, phải hiểu lý này. Trong khi chúng sanh thì thích tìm người giàu có, thế lực để làm thân, nhờ vả. Nhưng Phật dạy Bồ tát đem gieo hột giống Bồ đề vào nghiệp và phiền não của chúng sanh. Giải được nghiệp cho  người, họ mới mang ơn Bồ tát và tiếp tục giáo hóa, nâng cao đời sống cho họ, họ mới kính trọng Bồ tát. Tôi kinh nghiệm việc này rất rõ. Có người tốt với ta vô điều kiện là nhờ trong đời quá khứ, ta tu Bồ tát đạo, đã giúp đỡ họ. Vì thế, bây giờ thấy ta, họ liền thương mến. Quán sát theo Đại thừa thấy như vậy. Còn người kiếm chuyện, ta phải nghĩ kiếp xa xưa, ta cũng đã kiếm chuyện với họ. Nay oan gia gặp lại, phải giải oan nghiệp này. Bồ đề quyến thuộc gặp lại ta, họ sẵn sàng hợp tác hết lòng, cùng đi lên.
Bồ tát Quan Âm thay vì ở Cực Lạc không giáo hóa được ai; qua Ta bà, có vô số người cần ngài, nên ngài làm được rất nhiều việc. Ở khắp nơi trong Ta bà đều dựng tượng Quan Âm để tôn thờ và gọi ngài là Bồ tát cứu nhân độ thế. Ngài thường ở Ta bà cứu người, nhưng vị trí ở Cực Lạc. Các Thầy cô tu hành cũng nên tìm Cực Lạc ở ngay Ta bà bằng cách giúp đỡ người, thì vị trí của mình tăng cao. Riêng các cô có điều kiện tốt, vì tâm phụ nữ là dễ thương người. Chỉ cần đổi tâm ghét ganh thành tâm thương người; tìm người khó khăn để giúp đỡ, nhất định thành công.
Lạy Quan Âm, học hạnh của ngài, nghĩ và làm như vậy là đồng hạnh nguyện với Quan Âm, thì sẽ được Quan Âm vô hình gia bị, ta có thể trở thành Bồ tát Quan Âm ở nhân gian. Thí dụ bà Thái hậu Ỷ Lan được dân chúng đời Lý tôn danh là Bồ tát Quan Âm, vì bà làm việc giống với hạnh của Quan Âm, nên được ngài gia bị, bà mới thành tựu những việc làm phi thường. Hoặc Bồ tát tâm và Bồ tát vô hình ảnh hiện vào Ni sư Chánh Nghiêm ở Đài Loan, khiến Ni sư này là người bình thường, không học vị, lại trở thành người quan trọng nổi tiếng của Phật giáo Đài Loan và được coi là Quan Âm tái thế.
Ta phát tâm tu theo hạnh nguyện Quan Âm, công đức tự có. Chưa phát tâm, không có tiền; nhưng phát tâm làm việc lớn, cứu người thì những người không quen biết sẵn sàng đến hợp tác với ta. Ở Việt Nam có nhiều điều kiện tốt cho chúng ta làm việc tốt. Vì những người trên thế giới thương người Việt Nam phải gánh chịu đau khổ, mất mát quá nhiều qua hai cuộc chiến tranh. Các tổ chức, hội đoàn, hay người Việt ở nước ngoài mới gởi tiền và nhiều phương tiện khác để giúp đỡ. Nhưng theo tôi, chúng ta phải thương người thiệt, giúp người thiệt. Chúng ta không mong cầu Quan Âm vô hình, nhưng phát tâm làm giống ngài, thì người tốt sẽ tìm đến hỗ trợ chúng ta.
Ngoài ra, Quan Âm còn có nguyện: "Diệt tà ma, trừ yêu quái, Quan Âm Như Lai dứt trừ nguy hiểm nguyện”. Nghĩa là Quan Âm tồi tà phụ chánh. Học theo Quan Âm, điều gì chánh, chúng ta ủng hộ; việc tà, chúng ta dẹp. Dẹp bằng cách nào? Theo tôi, chúng ta tu theo chánh đạo, khắc phục được nghiệp ác, tăng trưởng công đức lành, từng bước đi lên. Chúng ta tồi tà phụ chánh bằng cách giới thiệu mẫu người tốt cho người khác thấy để họ noi theo và họ cũng thăng hoa được. Thí dụ Hòa thượng Trí Tịnh có công đức lớn; vì ngài không bện, hai là ngài dịch nhiều kinh điển cho chúng ta tu học, ba là ngài lãnh đạo Giáo hội suốt hai mươi năm được yên ổn. Người khác ồn ào đủ thứ, nhưng không làm được gì ích lợi cho ai. Quán sát kỹ, nhận biết được tà và chánh. Tà là kẹt tham sân si, chánh là yên tĩnh tu hành. Nhiều lúc Hòa thượng nhắc tôi rằng đừng thấy người khác thế này, thế nọ; đừng coi người khác là "họ”. Khi nào người ta hiểu giống mình, thì họ và mình là một. Ngài chủ trương không phân biệt đối xử.
Hàng tà ma trừ yêu quái là chúng ta làm tốt như Phật, sẽ giới thiệu được cái tốt cho người. Như tôi giới thiệu mình xuất thân từ gia đình nghèo, nhờ tu mà đi lên được; nên người cũng bắt chước tu theo. Đó là tồi tà, phải hiển dương được chánh đạo bằng cách làm việc tốt.
Bồ tát Quan Âm tay cầm bình cam lồ để cứu giúp người. Nước cam lồ lấy ở đâu? Gần nhất, chúng ta nói từ tâm, từ bản thể của sự vật, hay từ bản thể của Di Đà, lấy từ tánh thiên chơn của chúng ta. Muốn ban cam lồ rải tắt phiền não cho người, phải nhận cho được tánh thiên chơn của mình và từ đó mới sanh ra nước bát công đức. Vì vậy, trên bước đường tu, chúng ta phải đạt đến nhứt tâm, không nghĩ phải trái hơn thua. Có được sức tập trung cao để trở về nội tâm sâu thẳm, đạt đến bản thể sự vật. Và phát xuất từ bản thể này mà thể hiện thành lời nói, hành động, làm chúng sanh mát lòng, gọi là nước bát công đức. Nước này tuy vô hình, nhưng thực tế tiếp cận được người sống với tánh thiên chơn, thì cuộc sống của chúng ta cũng theo đó được tươi mát, an lành. Làm được như vậy là ban nước cam lồ.
Trong chú sái tịnh có câu:
Phủ thử thủy giả bát công đức thủy tự thiên chơn
Tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập Tỳ Lô Hoa Tạng giới.
Thế giới Hoa Tạng này phát xuất từ tâm chúng ta; vì Phật dạy rằng Phật, tâm và chúng sanh, ba thứ này không khác nhau. Vì thế, nếu vận dụng tâm ta thông qua tâm Phật, thì sẽ đến được thế giới an lạc của Hoa Tạng. Phật đã thâm nhập thế giới trong sạch này, nên Ngài luôn ban rải được an lạc cho tất cả chúng sanh.
Ngoài ra, Bồ tát Quan Âm cứu độ chúng sanh dễ dàng, vì ngài sử dụng tâm đại từ bi, hỷ xả; đó cũng là tâm Phật. Tu hành, chúng ta nỗ lực thực tập bốn tâm này trong cuộc sống. Nhưng đối với tôi, tu xả tâm trước. Người cố ý hay vô tình xúc phạm, tôi đều bỏ qua. Họ đến xin lỗi, nhưng tôi không thấy lỗi của họ; vì tôi đã không để tâm đến. Người làm được việc gì tốt, chúng ta đều tán dương, tùy hỷ. Đến đâu, tạo nguồn vui để sống, ai khổ mình giúp. Tâm đại từ bi của Quan Âm thì vô giới hạn. Có được tâm này mới dung được những người thù nghịch phá hại chúng ta, nhưng nay họ rơi vào hoàn cảnh khó khổ, mà chúng ta vẫn không nhắc đến tội lỗi của họ. Kinh Bát Đại Nhân Giác cũng dạy điều này: "Bậc Bồ tát ra tay bố thí, bình đẳng tâm không nghĩ oán thân, càng thương những kẻ ác nhân, quên điều lỗi cũ, thương phần khổ đau”. Hiện tại họ đau khổ, chúng ta giúp, còn quá khứ ác của họ thì khép lại. Đây là một ý niệm rất tốt, chẳng những có giá trị đối với hàng đệ tử Phật, mà ngày nay còn là giải pháp ứng xử tối ưu  mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho mọi người, cho đất nước trong mối quan hệ tích cực. Thật vậy, Nhà nước chúng ta cũng chủ trương khép lại quá khứ, mở ra tương lai hòa hợp để dung được những người muốn trở về sống hài hòa với dân tộc, đóng góp cho đất nước chúng ta đi lên.
Bồ tát Quan Âm luôn sống với bốn tâm từ bi, hỷ xả. Chúng ta cầu Quan Âm cứu giúp, nhưng không thực hiện theo hạnh nguyện của ngài, thì ngài không gia bị. Chúng ta thực sự thể hiện được bốn tâm tốt này, người xấu sẽ trở nên tốt với chúng ta. Người chống phá, nhưng nếu hiểu nhau được, họ lại trở thành thân thiết với mình. Còn họ tốt thực, nhưng tại chúng ta cư xử như thế nào  mà họ bỏ rơi mình.
Từ thuở nhỏ tu hành, tôi rất ghét phụ nữ và các Ni sư. Vì thế, tôi phải trả quả báo này ít nhất trong hai mươi năm qua; sau đó họ mới có cảm tình lại với tôi. Khi Hòa thượng Thiện Hoa làm Trưởng ban Hoằng pháp, Ni trưởng Huê Lâm đến thăm Hòa thượng. Tôi làm thị giả Hòa thượng, rót nước xong là tôi đi. Không ưa người thì phải chịu quả báo; nhưng tu hành xóa được trần lao này, thì Ni trưởng Huê Lâm mời tôi đến chùa Huê Lâm đãi cơm. Nghiệp quá khứ, chúng ta ít nhận ra, chỉ thấy hiện tại chúng ta không bằng lòng. Tuy nhiên, nhận ra nghiệp quá khứ và xóa bỏ được, cuộc đời chúng ta sẽ thay đổi, người sẽ đối xử tốt với ta. Trước khi du học, tôi là người khó ưa, vì tôi không ưa người. Nhưng học theo hạnh Bồ tát của kinh Pháp Hoa, trở về nước, suy nghĩ và thái độ của tôi đổi khác, nên được nhiều người dành cảm tình tốt đẹp và hợp tác, tu hành theo. Những kinh nghiệm thực tiễn này tôi xin chia sẻ với các Thầy cô để giúp quý vị không vấp phải những sai lầm và gặt hái được thành công trên bước đường tu.