Trí Quảng Toàn Tập - Quyển III - Lược Giải Kinh Hoa Nghiêm
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
Đạo Phật bắt nguồn từ Đức Phật lịch sử, Ngài đản sanh năm 624 trước Công nguyên, là hoàng tử duy nhất của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia ở nước Ca Tỳ La Vệ, thuộc miền Trung Ấn Độ. Với hoài bão tìm một cuộc sống giải thoát khổ đau sanh tử cho con người, Ngài đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân tìm chân lý. Sau sáu năm học hỏi và thiết thân thực nghiệm các pháp tu của ngoại đạo, Ngài đến núi Già Da, nhập định dưới cội Bồ đề. Qua bốn mươi chín ngày tư duy, Ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng giác.
Từ đó, Đức Phật bắt đầu hoằng hóa lợi sanh. Ngài đến Lộc Uyển giảng pháp, độ năm anh em Kiều Trần Như, hình thành Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng đầu tiên. Giáo đoàn của Ngài dần dần mở rộng, tập hợp một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo cùng sống với Đức Phật. Giữa Ngài và các vị Tỳ kheo này gần gũi nhau, gắn bó trong tình thầy trò. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là những đệ tử theo tu học với Phật đều kính nể Ngài như bậc Thầy sáng suốt nhất. Phần lớn các Tỳ kheo đều xuất thân từ ngoại đạo hay các tổ chức khác thời bấy giờ, họ trở về quy phục với Đức Phật vì Ngài là vị mô phạm sáng suốt nhất, thường được họ tôn danh là bậc đại Đạo sư, là vị Thánh cao cả nhất trong hàng Thánh.
Đó là hình ảnh Đức Phật tại thế toàn giác, toàn trí được tôn sùng như vậy trong thời Phật giáo Nguyên thủy. Với trí tuệ vô lậu, sáng suốt hoàn toàn, Ngài giảng dạy các pháp khác nhau tương ưng với căn tánh, hành nghiệp của đối tượng cần giáo hóa. Vì vậy, Phật giáo Đại thừa đã chia pháp Phật thành Tam thừa hay Ngũ thừa, nhưng tựu trung, người hữu duyên tiếp nhận pháp Phật, đều được thăng hoa, giải thoát.
Phật tại thế, Ngài là đấng Đạo sư minh triết bậc nhất, lời dạy của Ngài là chân lý và người ứng dụng có kết quả tốt là Thánh Tăng. Nhưng Phật diệt độ, thì Tam bảo mất phần Phật bảo, vị Thầy sáng suốt không còn nữa. Từ đó đặt ra vấn đề ai là người có đủ tư cách quyết định sinh hoạt của giáo đoàn.
Trước tình trạng khó khăn không ai đủ khả năng thay Phật lãnh đạo, đã dẫn đến chủ trương sử dụng giáo pháp Phật làm tiêu chuẩn quyết định. Vì vậy, Thượng tọa bộ đã đề ra giáo pháp còn, tức Phật còn, không ai có quyền thay đổi giáo pháp.
Nhưng sau một trăm năm, chủ trương này không được toàn thể Tăng chúng tán thành. Theo họ, Phật tại thế, tùy thời, tùy chỗ giảng dạy các pháp khác nhau. Nay, không còn Phật trực tiếp ứng xử các pháp tương ưng một cách đúng đắn, lợi lạc, thì không thể áp đặt lời Phật, khống chế mọi người.
Từ sự bất đồng này phát sanh ra nhiều ý kiến khác nhau giữa các bộ phái, gọi là thời kỳ bộ phái, nhưng chính yếu có Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ.
Thượng tọa bộ cố gắng giữ y nguyên hình thái sinh hoạt của thời Đức Phật tại thế, chỉ có vài thay đổi nhỏ. Họ cho rằng khi không có Phật, nên lấy giáo pháp làm Phật, gọi là Phật Pháp thân, nghĩa là Phật sanh thân không còn nữa, thì chúng ta nên nương giáo pháp của Ngài để sống, lấy đó làm kim chỉ nam hành đạo, không được sửa đổi. Như vậy, Phật hiện hữu dưới dạng giáo pháp Pháp thân.
Quan niệm của Thượng tọa bộ đặt nặng Phật Pháp thân hay giáo pháp chính là Phật, đã không được đại chúng chấp nhận. Tư tưởng Đại thừa từ đây nảy sinh với lập luận rằng từ Lộc Uyển đến Sa La song thọ, hơn ba trăm hội, Phật thuyết pháp không giống nhau. Vấn đề đặt ra cho người hiện tại nên lựa chọn, sử dụng pháp nào thích hợp và những gì không thể thích nghi, có thể tự quyết định cách khác.
Từ ngả rẽ này, Đại chúng bộ lấy chư Tăng làm chuẩn, cho rằng Phật hiện hữu trong Tăng đoàn. Khi cần sửa đổi điều gì trong sinh hoạt Phật pháp, thì ý kiến được tập thể chư Tăng tán đồng kể như có giá trị quyết định.
Như vậy, từ niềm tin tuyệt đối vào giáo pháp đã chuyển đổi thành chủ trương tin Tăng đoàn. Vì Phật tại thế, sinh hoạt chắc chắn phải khác hiện tại; thời đại và quốc độ khác, tất yếu dẫn đến sinh hoạt phải khác.
Những gì Phật dạy hay chưa nói đến, khi có sự kiện xảy ra, phải họp Tăng quyết định; đại chúng bằng lòng thì Phật hoan hỷ. Trên tinh thần lấy Tăng làm chính, phạm Phật, Tăng cứu được, nhưng phạm Tăng, Phật không cứu. Ngày nay, trên thế giới, tinh thần này vẫn có giá trị, chúng Tăng thay Phật đưa ra quyết định chung. Phật không nằm trong giáo pháp nữa, nhưng nằm ngay trong sự suy nghĩ của Tăng đoàn.
Tinh thần Phật giáo Đại thừa sử dụng giáo pháp Pháp thân của Phật giáo Nguyên thủy, kết hợp với sự hiểu biết của chư Tăng trong hiện tại, sửa đổi thành Pháp thân của Đại thừa, gọi là thanh tịnh Pháp thân, mà về sau được kinh Hoa Nghiêm diễn dịch là thanh tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na.
Giáo pháp là di chúc và chư Tăng thanh tịnh là sự sống. Vì vậy, chư Tăng hòa hợp cùng nhau thanh tịnh chế định ra giáo pháp, tức nguyên tắc sống phù hợp, lợi lạc an vui, được coi là Pháp thân Phật thuyết ra, khác với Pháp thân theo Phật giáo Nguyên thủy là giáo pháp gồm có một số điều không thích nghi với sinh hoạt mới của thời đại.
Thực tế cho thấy những gì chư Tăng họp lại, chế định ra, dễ được chấp nhận hơn là theo truyền thống. Mặc dù cần trân trọng truyền thống, nhưng cũng không thể không quan tâm nhiều đến sự nhận thức và tình cảm của người đang sống. Bỏ qua điều này sẽ đưa đến thất bại trầm trọng. Ý thức như vậy, Phật giáo Đại thừa chủ trương lấy thanh tịnh Pháp thân làm chuẩn mực tu hành. Tuy nhiên, cần chú ý phải hòa hợp thanh tịnh thực sự từ đáy lòng, không phải chỉ hòa ngoài mặt hay hòa trên đầu môi chót lưỡi. Thiết nghĩ khi chư Tăng hòa hợp thanh tịnh, chế định được gì, thì cái đó tồn tại.
Tóm lại, khi Phật tại thế, Ngài hiện hữu như đấng toàn giác, toàn trí, toàn thiện. Tư cách tuyệt mỹ ấy soi sáng tâm trí mọi người thăng hoa, đã được lịch sử ghi lại rõ ràng.
Vấn đề quan niệm về Đức Phật như thế nào chỉ đặt ra sau khi Ngài diệt độ. Ở thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy (tính từ Phật tại thế đến sau Phật nhập diệt một trăm năm), ngoài sanh thân Phật đã không còn nữa, người ta hình dung ra Đức Phật vẫn hiện hữu trong giáo pháp Pháp thân, Tăng đoàn Pháp thân, tức Ngài còn hằng hữu qua lời dạy trong kinh điển, qua sinh hoạt hòa hợp thanh tịnh của chư Tăng ở khắp năm châu.