Trí Quảng Toàn Tập - Quyển III - Lược Giải Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nồng cốt của Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về Pháp, trong khi kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy đủ tư cách để tuyên thuyết Diệu pháp.
Quan niệm về Đức Phật theo Hoa Nghiêm tất nhiên cũng khởi đầu từ Phật nguyên thủy là Đức Thích Ca. Ngài cũng mang thân tứ đại giống như chúng ta và trải qua quá trình tu hành, đắc quả Vô thượng Bồ đề.
Quan điểm cho rằng Phật là người giống như ta và tiến tu thành bậc Chánh giác, được xét lại trong thời Phật giáo phát triển. Vì câu hỏi được đặt ra là tại sao người đều giống nhau, nhưng chỉ duy nhất có Phật thành tựu quả vị Toàn giác, còn những vị tu hành khác thì có người thành Tổ, có người làm trụ trì, hoặc có người chẳng đạt được quả vị nào.
Phật giáo phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên trong cái thực của con người, tức chân linh để định giá trị khác nhau của mỗi người. Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, phần cốt lõi quan trọng hơn, vì lõi thế nào thì hiện ra bên ngoài thế đó. Bên trong hàm chứa cốt cách của Phật, Tổ, tất yếu bên ngoài phải hiện tướng hảo trang nghiêm. Đó là do các Ngài đã tích lũy công đức tu hành nhiều đời, không phải một kiếp làm được, không phải một đời thành Phật được như chúng ta lầm tưởng. Chúng sanh tạo nghiệp ác, chất chứa trong nhiều đời cũng giống như vậy.
Từ đó, hình thành kinh Bổn sanh, Bổn sự nói về vô số tiền kiếp của Phật xả thân hành Bồ tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo mặc cho chân linh. Đó là quan niệm mới của Phật giáo phát triển bắt đầu quán sát người ở hai mặt; đó là mặt bề ngoài là sanh thân hay thân mạng hữu hình và thân mạng vô hình bên trong là Báo thân, tức hành vi tạo tác của chúng ta.
Do công đức tu hành tạo nên con người là Bồ tát, Thánh Hiền, Phật. Nghiệp chướng trần lao thì tạo thành chúng sanh trôi lăn trong sáu đường sanh tử. Như vậy, chúng ta có hai con người là con người bằng xương thịt và con người bằng chân linh. Đại thừa chú trọng đến phần chân linh, căn cứ vào sanh thân Phật để tìm hiểu chân linh hay nhận ra Báo thân Phật.
Theo Đại thừa, Báo thân là phước đức, trí tuệ của Phật. Ngài giáo hóa người thành tựu dễ dàng vì lời nói, hành động, việc làm đều phát xuất từ trí tuệ siêu tuyệt và đạo đức hoàn toàn thánh thiện.
Đại thừa nhìn về Phật qua tri thức và đức hạnh của Ngài và triển khai Báo thân. Suy nghĩ về Báo thân, nương Báo thân Phật tu hành nhằm mục tiêu phát triển Báo thân của chính mình. Trên bước đường tu, chúng ta xem Phật, Tổ, Bồ tát làm gì, ta cũng làm vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng mình.
Đức Phật dạy rằng ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho đầy đủ tâm đại bi, viên mãn hạnh Bồ tát. Vô lượng kiếp quá khứ, Phật, Hiền Thánh đều trải thân hành Bồ tát đạo, làm lợi ích cho chúng hữu tình, mới đạt đến Vô thượng Đẳng giác. Ngày nay, muốn thành tựu quả vị như Phật, chúng ta cũng phải phát tâm Bồ đề, dấn thân tu Bồ tát đạo. Đó là tư tưởng nồng cốt của Phật giáo Đại thừa.
Tiến đến đỉnh cao của hệ tư tưởng này là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật và cách tu như thế nào để thành Phật, tức Bồ tát pháp. Tinh thần Hoa Nghiêm cho chúng ta ý niệm về Đức Phật hoàn toàn mới, khác hẳn các bộ kinh Đại thừa khác. Đức Phật không bị giới hạn trong một loại hình cố định nào.
Thật vậy, Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta tầm nhìn phóng khoáng, theo đó không có gì không phải là Phật, đó mới là Đức Phật chân thật. Phật này là Phật huệ, trí tuệ Phật hiện vô thân đồng nữ thì đồng nữ đó là Phật, hiện trong thân trưởng lão thì trưởng lão là Phật, v.v...
Tư tưởng đặc biệt của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh hằng của một Đức Phật toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đạt đến trình độ nhất định nào đó mới có thể hiểu, sống và hành đạo như vậy.
Đứng trên lập trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là Pháp giới, được kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật với mười loại thân là Ngũ ấm thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh văn thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp thân và Hư không thân. Hay có thể nói mười loại hình này là diễn tiến của sự sống từ thấp nhất tiến đến quả vị Phật và từ Phật giới chi phối ngược xuống toàn bộ các loài hữu tình, vô tình.
1 - Ngũ ấm thân
Trái với quan niệm thông thường cho rằng Thượng đế tạo ra con người và vũ trụ, theo Hoa Nghiêm, trước tiên lấy ngũ ấm làm căn bản, vì tất cả muôn vật đều phát xuất từ ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đức Phật cũng hiện hữu từ ngũ ấm, Ngài tiến đến quả vị Toàn giác vì Ngài không bị ngũ ấm chi phối. Chúng sanh cũng mang thân ngũ ấm, nhưng bị nó ràng buộc triệt để, luôn gánh chịu khổ đau sanh tử.
Đức Phật khẳng định rằng ngũ ấm cấu tạo nên con người và con người bị lệ thuộc nó. Chính vì còn kẹt vào thân vật chất, tức sắc uẩn, chúng ta còn bị bốn thứ là đói, khát, nóng, lạnh hành hạ. Khi sống với thức uẩn, mặc dù chưa phải là chơn tâm, chúng ta cũng đã thoát khỏi sự ràng buộc của bốn tướng này. Thí dụ như trong giấc mơ, chúng ta không ăn cũng không thấy đói.
Hương vị giải thoát đầu tiên của người đắc được Sơ quả là xa lìa được đói khát, nóng lạnh. Vì vậy, Thiền sư trong lúc nhập định không cần ăn uống, ngủ nghỉ, mà không có cảm giác đói khát, mệt mỏi, vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự chi phối của thân xác.
Thân của Đức Phật khởi đầu cũng phát xuất từ thân ngũ ấm như chúng ta và Ngài cũng sử dụng nó. Nhưng chính yếu là Phật điều khiển được thân hoàn toàn theo mục tiêu mà Ngài đặt ra. Đối với Phật, Ngài mang thân ngũ ấm trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thành Vô thượng Đẳng giác để giáo hóa chúng sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ, Ngài rời bỏ thân một cách nhẹ nhàng. Đức Phật khác hơn chúng sanh là như vậy.
Chúng sanh thì bị thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với thân, chết cũng không yên với nó. Đức Phật thì tự tại hoàn toàn vì chuyển đổi được ngũ uẩn thành Pháp thân mà kinh diễn tả rằng "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai”.
Đức Phật sử dụng và phát triển ngũ uẩn thành ngũ phần Pháp thân, đạt đến đỉnh cao Tỳ Lô Giá Na chi phối muôn loài. Vì vậy, ngũ uẩn được kinh Hoa Nghiêm coi là một trong mười thân của Phật Tỳ Lô Giá Na.
2 - Quốc độ thân
Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sanh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân chỉ cho sơn hà đại địa. Nói chung, sự sống đơn bào tiến lên đa bào,phát triển lần đến các sinh vật hữu tình và vô tình.
Theo tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng, hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm; đó là vô tình thuyết pháp. Thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quang, tạo thành lực hấp dẫn đưa ta đến với Phật đạo.
Trong kinh thường diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo, Phật hiện thân trong tất cả các loài, không riêng gì loài người, Ngài đã từng làm nai, chim, sư tử ... Trong vũ trụ, cỏ cây hoa lá cho đến động vật đều có Tỳ Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các hữu tình chúng sanh thuộc tứ sanh lục đạo cũngchịu lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na để tồn tại.
3 - Chúng sanh thân
Loại thân hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá Na là trải thân ra làm đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để che chở, nuôi sống, dung nhiếp muôn loài. Không loài nào mà tâm đại bi của Phật không tác động đến, thể hiện sự hiện hữu loại thân thứ ba của Phật gọi là chúng sanh thân.
Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật. Ngược lại, mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng tai gai mắt với phàm phu, ràng buộc họ, làm cho khổ đau.
Trên tinh thần tất cả đều đẹp, những người thật dạ tu hành ở bên phiến đá, cạnh dòng suối trong núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba đời mười phương Phật, họ dễ dàng tiến tu giải thoát. Nhưng nếu khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ này mới tu được, ở chỗ kia buồn khổ, thì không thể nào sống trong thiền môn. Riêng tôi, vào thời niên thiếu, có lúc hành đạo, ở dưới gốc cây, sống thật đạm bạc, nhưng cảm nhận được hạnh phúc kỳ diệu.
Thiết nghĩ, người nào vân du hành đạo dễ nhận ra ý này. Khi trụ tâm tu hành, cái gì cũng đẹp, nhưng bắt đầu xây cất tinh xá, chùa chiền, thu nhận đồ chúng thì cũng bắt đầu khổ với trần duyên. Thật vậy, tâm hồn chúng ta thoáng, không chấp vật, cái gì đối với ta cũng tốt. Nhưng chấp một cái là trùng trùng duyên khởi phiền não sanh ra.
Bước theo lộ trình Hoa Nghiêm, chúng ta cũng tập mang tinh thần rộng lớn như vậy, tập làm những việc bao dung, giúp đỡ người phát triển. Đó là con đường đưa chúng ta đến quả vị Toàn giác trong tương lai. Nói cách khác, ngũ uẩn phát triển đạt đến đỉnh cao Tỳ Lô Giá Na chi phối muôn loài.
4 - Thanh văn thân
Từ chúng sanh thân, Đức Phật nhận ra cuộc đời không bền chắc, nên Ngài khởi tâm đi tìm sự hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế nhân, đi theo lộ trình Phật đạo, mang thân tu sĩ, tức Thanh văn thân, cũng là một loại hình thân của Phật.
Thanh văn có bốn hạng. Một là tăng thượng mạn Thanh văn học nhiều, nhưng chỉ để nói khoác. Chúng ta cần cân nhắc, đừng để rớt vô hạng này. Hạng thứ hai là thú tịch Thanh văn, học và chấp vào pháp đã được. Họ sống với pháp đó cho đến lần tách rời cuộc đời, không biết gì đến thế gian. Khi đắc đạo, họ hướng thẳng về an trú Niết bàn. Hạng thứ ba là thoái chuyển Thanh văn, phát tâm Bồ đề, làm lợi ích cho chúng hữu tình, nhưng nghiệp và phiền não bản thân còn nhiều, bị chúng sanh gây khó khăn. Họ không thể tiến tu Bồ tát đạo, phải lui trở lại tu hạnh viễn ly. Sau cùng là Bồ tát thị hiện Thanh văn, thực sự là Bồ tát, nhưng ở trong hàng Thanh văn để giáo dưỡng họ.
Bốn hạng Thanh văn trên đều mang hình thức đệ tử Phật, dù họ tu cách nào, Phật lực cũng chi phối đến thân họ. Đối với người Tây Tạng, hàng tu sĩ được quý trọng như Phật sống. Tinh thần này được kinh Pháp Hoa diễn tả là thế gian tướng thường trụ, tức ở trong loài người, mang thân người duy trì được Phật pháp qua hành động và tư tưởng trong cuộc sống.
Vì vậy, người tu theo pháp Phật, trắc nghiệm ba mươi bảy Phẩm trợ đạo giữa lòng cuộc đời, được coi như là Pháp thân của Đức Phật, hay Thanh văn thân là một phần trong tổng thân của Phật Thích Ca.
5 - Duyên giác thân
Trong hàng đệ tử Phật, Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất bén nhạy. Họ quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội. Và theo lời Phật dạy, người nào thấy nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị Toàn giác.
Hàng Duyên giác hay Bích chi Phật ẩn tu, thâm nhập Thiền định, nhận chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ sanh lục đạo và hành sử theo đúng với lý nhân duyên ấy, thì họ vẫn được coi là một hiện thân của Phật trên cuộc đời.
6 - Bồ tát thân
Thanh văn tu hành tập thể và Duyên giác hay Độc giác ẩn tu quán sát các pháp. Tổng hợp hai cách tu này, có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức, vừa có tri thức và đi vào đời độ sanh gọi là Bồ tát.
Bồ tát hay bậc giác hữu tình, tức người đem ánh sáng giác ngộ đến các loài hữu tình. Họ phát tâm Bồ đề, khởi niệm thương chúng sanh và đến giúpđỡ, cũng là do Phật lực chi phối đến. Trên tinh thần hành đạo cứu đời vì tiếp nhận được lực Tỳ Lô Giá Na, nên Bồ tát thân cũng là thân của Phật.
7 - Như Lai thân
Khi người tu tròn đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả vị Phật, tức Như Lai thân. Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau tu hành như Thanh văn. Vì Như Lai thân không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác động đến các loài chúng sanh và giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động niệm.
Ở quả vị Như Lai, không cần làm tất cả các việc trước nữa, nhưng các loài hữu tình chúng sanh tự phát tâm tu và tự giải thoát. Đó là đặc biệt của sự giáo hóa bằng Như Lai thân, không cần cứu độ mà mọi loài được nương nhờ, tự tôn kính, quy ngưỡng Phật.
8 - Trí thân
Trên bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt đến vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động, mà vẫn hóa độ được chúng sanh. Hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, nhưng bằng trí tuệ, nên gọi là Trí thân.
9 - Pháp thân
Dùng trí thân, tức dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ phát tâm Bồ đề. Chúng sanh chịu sự chi phối của trí thân gồm cả hữu tình và vô tình chúng sanh tức nhứt thiết pháp. Tất cả pháp, không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không chiếu tới được.
Trí Như Lai chiếu tới đâu thì chuyển các pháp ấy thành Pháp thân của Đức Phật. Đó là điểm then chốt của kinh Hoa Nghiêm quan niệm về Đức Phật. Trí tuệ Phật chiếu vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác động họ phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó biến chuyển thành pháp của Phật.
Thí dụ trí tuệ Như Lai tác động vào chúng ta, khiến chúng ta phát nguyện theo Phật đạo và cũng tác động qua các pháp, biến gạch ngói, đất đá thành chùa chiền. Tu sĩ, tín đồ, chùa, cảnh vật, pháp khí, v.v… hiện hữu để Phật pháp tồn tại, phát triển, thì tất cả đều là Pháp thân của Đức Phật. Quang cảnh thiền môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho người hình dung ra Phật, liên tưởng đến cách sống của Ngài và họ phát tâm tu theo, tức Pháp thân của Phật đã thuyết pháp.
Có thể nói Pháp thân Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm được triển khai rộng hơn ý niệm Pháp thân của Phật giáo Nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp Phật còn lưu lại.
Kinh Hoa Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. Từ căn bản ấy, tất cả mọi sự vật trên cuộc đời đều chuyển thành Phật pháp nếu có huệ Như Lai rọi vào. Một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì đều biến thành Phật khi người tạo ra nó, hoặc người chiêm ngưỡng, kính lễ tượng Phật và nhận được huệ Như Lai, họ cũng có ý niệm về Phật. Trái lại, không có huệ Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá. Triển khai mạnh về ý nghĩa này, kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng mọi cách phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc đời, vào vũ trụ, chuyển tất cả thành Phật pháp.
10 - Hư không thân
Tiến theo lộ trình Hoa Nghiêm, đạt đến đỉnh cao nhất là Hư không thân, hay Tỳ Lô Giá Na thân. Tỳ Lô Giá Na dịch là phổ quang minh chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp, biến pháp thành Pháp thân. Lúc ấy, Trí và Lý bất nhị, kết hợp thành một. Thiết nghĩ đây là loại hình của thế giới tu chứng, khó diễn tả bằng ngôn ngữ bình thường.
Mười thân Phật nói trên là tổng thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống chín loại hình, từ hàng Thánh giả đến người thường trên cuộc đời và cả loài hữu tình, vô tình.
Trong vô hình, lực Tỳ Lô Giá Na chi phối xuống hữu tình chúng sanh và vô tình khí thế giới, khiến cho tất cả phát tâm Bồ đề, tiến tu đạo nghiệp, kết hợp thành Pháp giới.Đó là thế giới huyền môn của đạo Phật dành cho những người tiến bước theo Bồ tát đạo, đạt đến bằng sự tu chứng thực sự, nằm ngoài sự lạm bàn của phàm phu điên đảo vọng tưởng.