cool hit counter

Trí Quảng Toàn Tập - Quyển III - Lược Giải Kinh Hoa Nghiêm


Lời tựa Lược giải Kinh Hoa Nghiêm    11- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Kiến Tỳ kheo
CHƯƠNG I – LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
        I - Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
   12- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tự Tại Chủ đồng tử
    II - Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm    13- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Cụ Túc Ưu bà di
  III - Nội dung kinh Hoa Nghiêm    14- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Minh Trí
CHƯƠNG II - Ý NGHĨA ĐỀ KINH HOA NGHIÊM    15- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Pháp Bửu Kế
CHƯƠNG III – QUAN NIỆM VỀ ĐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM
       I - Quan niệm về Đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy
   16- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Phổ Nhãn
   II - Quan niệm về Đức Phật theo Đại thừa Phật giáo    17- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Vô Yểm Túc
  III - Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm    18- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với vua Đại Quang
CHƯƠNG IV – BỒ TÁT ĐẠO
      I - Bồ tát Thập Tín
   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di
  II - Bồ tát Thập Trụ    20- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Biến Hành ngoại đạo
 III - Bồ tát Thập Hạnh    21- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Ưu Bát La Hoa
IV - Bồ tát Thập Hồi hướng    22- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thuyền trưởng Bà Thi La
 V - Bồ tát Thập Địa hay Thập Thánh 23.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát
VI - Bồ tát Thập Định 24- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân
VII - Bồ tát Thập Thông 25- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với bà Tu Mật Đa nữ
VIII - Bồ tát Thập Nhẫn 26- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với cư sĩ Tỳ Sắc Chi La
CHƯƠNG V – PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI 28.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Chánh Thu
   1- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Đức Vân Tỳ kheo 27.- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ Tát Quán Tự Tại
   2- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Vân Tỳ kheo 29- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với thần Đại Thiên
   3- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thiện Trụ Tỳ kheo 30- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Địa thần An Trụ
   4- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Di Già 31- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với chủ Dạ thần Bà San Bà Diễn Để
   5- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với trưởng giả Giải Thoát 32- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Dạ thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa và Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sanh
   6- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo 33- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thọ thần Diệu Đức Viên Mãn
   7- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Hưu Xã Ưu bà di 34- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bồ tát Di Lặc
   8- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa 35- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
   9- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Thắng Nhiệt Bà la môn 36- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Phổ Hiền Bồ tát
   10- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Từ Hạnh đồng nữ CHƯƠNG VI – PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHÌ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI – PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN

 

   19- Thiện Tài đồng tử cầu đạo với Bất Động Ưu bà di

        Trên bước đường tu, quyến thuộc trở thành quan trọng, không dễ tạo được, phải cố gắng gìn giữ. Vua Đại Quang thành công được nhiều việc thiện vì ông có nhiều người tốt giúp sức, trong đó phải kể đến Bất Động Ưu bà di. Vì vậy, vua giới thiệu Thiện Tài đến học với Bất Động Ưu bà di. Ưu bà di này không lập gia đình nên gọi là đồng nữ, chơn tánh còn nguyên vẹn, không bị trần thế làm nhiễm ô. Điều đặc biệt của đồng nữ Bất Động là không hề dao động trước mọi việc trần gian.

Đức Phật có hai pháp, pháp phương tiện và pháp chân thật. Pháp phương tiện tức tùy duyên mà hành đạo, chúng ta cũng có thể trở thành vô động. Ở đâu, chúng ta phải tùy thuộc chỗ đó, ở nước này mà muốn giống chỗ khác, không bao giờ được.

Trước khi đi Pháp, tôi suy nghĩ kỹ ý này. Tôi luôn nhớ phải an trụ pháp phương tiện của Phật, nghĩa là tùy duyên mà sống, ở chùa Trúc Lâm không phải là chùa Ấn Quang hay Xá Lợi và trăm người trăm ý, làm sao vừa lòng tất cả, mình mới yên thân.

Tôi lạy Phật để lòng thanh tịnh và phương tiện tìm được ở đây là mọi người đều xa quê hương, ngày Vu Lan gợi họ nhớ đến tổ tiên ông bà; nên tôi triển khai điểm chung là mối liên hệ thân thương của chúng ta với cửu huyền thất tổ như thế nào theo Phật dạy để đáp đền ơn đức ấy. Trong thời pháp, mọi người đều cảm động đến rơi lệ và tôi đã được giải thoát thật!

Thuở quá khứ xa xưa, Bất Động Ưu bà di phát tâm Bồ đề trong hoàn cảnh cũng thật đặc biệt, lúc đó đồng nữ là công chúa. Vua cha sanh nhiều con trai, nhưng chỉ có đồng nữ là con gái, nên được cả triều đình quý mến. Một hôm, công chúa ở trên lầu ngắm xem tinh tú. Hướng nhìn trời và muôn vì sao đến độ xa thẳm, tức tập trung tư tưởng đến độ cao nhất, thì công chúa thấy thế giới Phật hiện ra với Đức Phật đầy đủ uy nghiêm tướng tốt, thấy Phật hành đạo, thấy Thánh chúng và tất cả chúng sanh đang sinh hoạt.

Thấy như vậy rồi trở lại cuộc sống trần thế, công chúa không còn ham muốn gì và tâm không còn mê muội. Những pháp Phật thuyết và Bồ tát hành đạo, bà không bao giờ quên và mọi thứ không còn khả năng lôi cuốn, nên mới có danh xưng là Bất Động. Và dẫn đến đời nào, kiếp nào, tâm của đồng nữ cũng không chao đảo vì tâm này sống dưới dạng Pháp giới, sinh hoạt ở dạng thể tánh của muôn vật vốn bất động, nên đồng nữ này trụ bất động.

Chúng ta dao động vì đã rời bỏ chơn tánh, đi vào sanh tử. Ta gá tâm trong sanh tử nên bị nó mê hoặc, không còn sáng suốt, không chủ động được việc gì. Ý thức như vậy, trên bước đường tu, dù gặp sóng gió ba đào đến đâu, chúng ta phải cố trụ tâm. Một khi tâm ta dao động theo sóng triều trần thế là biết mình đang rời xa chơn tâm, phải kéo lại bằng cách thọ trì đọc tụng lời Phật dạy để tìm lại sự an lành cho chính mình. Cần tâm niệm rằng trong thế giới xô bồ nhiều khổ đau này, nếu không làm được gì cho ai thì chính bản thân ta cũng đừng loạn động; làm được như vậy là ta đã đóng góp cho sự an tâm của người khác.

Trong quá trình tu, đồng nữ Bất Động tu Định, thường trụ ở thể tướng vắng lặng, nên vượt ngoài sự chi phối của hiện tượng sanh diệt. Đối với Bất Động, lúc còn trong thai mẹ thọ ngũ uẩn thân, tâm cũng không mờ tối. Trong khi các Bồ tát khác vào thai mẹ, thì chịu ảnh hưởng sự tư duy của người mẹ và khi mang ngũ ấm thân, họ cũng bị nóng lạnh đói khát của thân chi phối; chỉ trừ khi họ sống gần Phật mới trở về trạng thái sáng suốt được.

Bất Động Ưu bà di cho biết đời đời kiếp kiếp chỉ tu một pháp là giữ cho tâm yên tĩnh, không mê muội, không để cuộc đời lôi cuốn; kinh ghi là tâm như Kim cang, tất cả phiền não không phá hoại được. Trải qua vô số kiếp, bà chẳng khởi một niệm tâm ái dục, huống là làm việc ấy. Vì không quan tâm đến của cải cho đến thân mạng, những thứ này có hay không, đối với Bất Động Ưu bà di cũng không thành vấn đề.

Bất Động Ưu bà di hành đạo Bồ tát trên nhân gian bằng cách tĩnh lặng, không dao động trước hoàn cảnh và cái chết. Tâm định tĩnh ấy tác động cho người xung quanh bình ổn theo, thể hiện bài pháp sống. Từ tâm định tỉnh nhiều năm, nhiều đời mà Bất Động hiện tướng giải thoát, hiền dịu, dễ thương, tạo thành cuộc sống an lành trong một xã hội không an lành.