cool hit counter

Trí Quảng Toàn Tập - Quyển V - Kinh Đại Bảo Tích - Tập 2HT. Thích Trí Quảng


Pháp hội này Đức Phật đề cập trước nhất là sự nhận thức về Tứ Thánh đế theo tinh thần Đại thừa. Lịch sử Phật giáo ghi rằng trước tiên Đức Phật nói pháp Tứ Thánh đế ở Lộc Uyển. Trong suốt mười hai năm đầu giáo hóa độ sanh, Ngài triển khai pháp Tứ Thánh đế, dạy cho Thanh văn gọi là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Căn bản của pháp Phật chính là Tứ Thánh đế.

Tuy nhiên, dưới kiến giải của Đại thừa hay Tổ Thiên Thai, quán sát Tứ Thánh đế có những cấp bậc khác nhau. Đó là tư nghì sanh diệt Tứ Thánh đế, bất tư nghì sanh diệt Tứ Thánh đế, tư nghì bất sanh diệt Tứ Thánh đế và bất tư nghì bất sanh bất diệt Tứ Thánh đế.

Phật giảng Tứ Thánh đế tư nghì sanh diệt thì Thanh văn suy nghĩ, luận bàn, trao đổi. Điều này nằm trong phạm vi hiểu được, giải thích được của con người. Có thể nói đây là pháp dành cho phàm phu, cho người chưa đắc đạo.

Phải từ sơ quả Tu Đà Hoàn, dự vào dòng Thánh, mới bước qua Tứ Thánh đế thứ hai là bất tư nghì sanh diệt Tứ Thánh đế, thì nhận biết, hiểu được pháp này. Kinh ví như người uống nước mới biết mùi vị của nước thế nào. Xây dựng trên tinh thần này, đạo Phật chủ trương tu là chính. Học một lần, nhưng suy nghĩ và áp dụng suốt đời và nhiều đời cho đến chứng được quả Vô thượng Bồ đề mới hoàn tất.

Ngày nay, các Thầy cô học xong một bộ kinh, hiểu và giảng dạy được, thì đó là cái học và hiểu theo thế gian; còn có nhiều điều không hiểu là pháp bất tư nghì. Nhưng nếu áp dụng trong cuộc sống tu hành, đắc Sơ quả cũng biết được những điều bất tư nghì. Có thể nói kinh Pháp Hoa chúng ta học là của phàm phu hay Thanh văn. Kinh Pháp Hoa của Bồ tát thì ta chưa là Bồ tát, nên không thể biết.

Phàm phu nhìn đời hay đạo hoàn toàn khác người xuất gia. Phàm phu nhìn đời dưới dạng tham lam, ghét ganh, thấy lợi là chen vô, thấy khó thì tránh né. Hành đạo, tôi nhận ra ý này. Xuất gia làm Sa môn sống trong pháp Phật, nên cái nhìn của ta phải khác. Người đời thấy ta tu là khổ; còn ta phải thấy việc tu hành là vinh quang, thấy khổ thì không tu được. Tôi thấm thía câu nói của Hòa thượng Thiện Hoa rằng phúc đức thay cho người cô độc, vì không bị phiền não thế tục quấy rầy. Người đời thường nghĩ đến quyền cao chức trọng, vợ đẹp con khôn. Ta xuất gia học đạo nhìn về thế gian thấy khác, thấy cuộc đời là biển khổ. Tôi tu trên năm mươi năm chưa nghe người nào nói, dù người rất giàu có hay địa vị cao, là họ được hạnh phúc. Họ nói chỉ thấy Thầy (là tôi) là sướng. Lúc ở Pháp, có một Phật tử dành cho tôi phòng ở thật sang, bàn ghế, tủ thờ sơn mài đặt từ Việt Nam chở sang. Ông chủ một tuần thăm tôi một lần, nói chuyện độ năm ba phút thì phải đi, vì bận quá. Ông này có nhiều đồn điền, biệt thự cho mướn và nhà hàng; nên phải chạy ngoài đường suốt ngày, lo công việc quên ăn, bỏ ngủ. Người đời ước mơ được như ông, nhưng tôi thấy ông bận rộn không đủ thì giờ ăn, ngủ; hễ rảnh chút xíu là bận giao tiếp bạn bè, uống rượu. Tôi thấy chỉ toàn phiền não bao vây ông, chẳng sung sướng gì. Dự tiệc tiếp xúc để trao đổi làm ăn thì chắc chắn cũng phiền não, say sưa không ra người thì sướng ích gì. Như vậy, chúng ta đánh giá lạc thú trần gian khác người đời.

Tu tập Tứ Thánh đế, chúng ta biết các khổ lụy và nguyên nhân của nó; thấy rõ mọi người đều khổ và luôn tạo nhân của khổ, vì ăn, mặc không cần nhiều như họ tưởng. Nhìn kỹ thấy cuộc đời như vậy, có ít nhà thì khổ ít, tạo thêm nhiều nhà thì khổ nhiều. Tất cả khổ ải bao vây họ, là nhìn mặt sung sướng của họ đã thấy khổ. Nếu nhìn người khôngphước báu, chịu cùng tột khổ đau của địa ngục, súc sanh, thì thấy họ càng khổ kinh khủng hơn nữa. Tôi quan sát bà bán bông trước cửa chùa không có nhà, nhưng có hai đời chồng và hai đứa con, phải buôn bán cực khổ nuôi chồng con.

Chúng ta tu có trí tuệ, nhận ra cái nhân khổ, thấy mình nghiệp nặng, phước ít thì phải tự cắt bỏ cái nhân khổ; đừng nghe theo lời cám dỗ thì cái khổ không thể đến với mình. Người giàu đã khổ, nghèo còn khổ hơn nữa. Vì nghiệp dẫn người đến quả khổ; có nghiệp thì nhìn đời không chính xác. Huynh đệ với tôi siêng năng tụng niệm lễ bái, nên hiện tướng hảo. Bà hàng xóm mới dụ ông hoàn tục. Nhưng ra đời rồi thì bà lại thấy ông xấu xí, ốm nhom, đen thui. Thiết nghĩ trên bước đường tu, nghiệp hiện ra khiến chúng ta thấy theo nghiệp, tưởng là tốt đẹp, mới chen vô, nên phải thọ khổ.

Theo tôi, chúng ta đi thọ sanh mà không giác quán, không đắc Sơ quả, sẽ thọ sanh theo nghiệp. Tại sao người lại đầu thai vào loài thú. Vì thần thức nghiệp khởi lên, thấy heo mà tưởng là Thiên Bồng nguyên soái; nhìn lầm như vậy mới chui vô heo đầu thai. Trên cuộc đời này, chúng ta thấy mọi người có biết bao nhận thức sai lầm. Người thấy ba đời nhân quả mới thoát ly được nhân quả. Nếu thấy heo thì dại gì chui vô; nếu thấy ông ốm nhom, làm gì cũng không xong thì dại gì rước về.

Theo tôi, "Cầu cho những kẻ tâm tà, chưa vào địa ngục nhận ra sai lầm”. Phải nhận ra điều sai trái trước, thấy nguy hiểm trước, mới tránh được nạn. Còn đa số đọa địa ngục, rơi vô hoàn cảnh không thoát được, mới nhận ra sự sai lầm của họ. Lúc ấy, nghiệp đã thành, thì Phật cũng không cứu được.

Người học được Tứ Thánh đế, quán sát Tứ Thánh đế và tu tập Tứ Thánh đế để nhìn thấy khác thế gian. Người thế gian nghĩ vui, giàu có; nhưng người tu thấy làm vậy khổ, sẽ bị đọa. Nhiều người thưa với tôi rằng buôn bán không gian dối thì không giàu được. Nhưng tôi vẫn khuyên họ rằng Phật dạy không được gian dối, vì đó là nguyên nhân của khổ đau, sớm muộn gì cũng dẫn đến quả khổ. Thật vậy, người gian tham lừa đảo đượcnhất thời, nhưng sẽ khổ suốt đời. Nhiềungười khôn ngoan, nhưng hậu vận của họ,không ai được tốt cả. Vì lừa được một lần, lừa được một người, không lừa mãi được và không lừa nhiều người được. Ăn chỉ một lần, mà mất tất cả; càng lâu dài, việc xấu càng hiện rõ, là tự đào hố chôn mình. Thấy như vậy là thấy cái nhân của khổ. Nguyên nhân nghèo đói vì tâm xấu, tướng gian tham trộm cắp hiện ra, người muốn nuôi cũng sợ, không dám nuôi. Nhìn đời theo mắt đạo là vậy.

Pháp căn bản Tứ Thánh đế Phật dạy cho người xuất gia phải thấy rõ thực tế cuộc sống, thì ta không mắc lầm, từng bước dẫn chúng ta đến Niết bàn giải thoát. Cuộc đời là tấm gương chính xác nhất cho chúng ta soi bóng. Bao nhiêu khổ đau bày ra trước mắt ta và cũng ghi đủ trong sách vở. Chúng ta ghi nhận, đối chiếu, phân biệt được Niết bàn và địa ngục, là hiểu được Khổ đế và Tập đế đãtạo ra con đường sống khổ theo thế gian. Và Diệt đế, Đạo đế là con đường giải thoát mà từng bước tu hành, chúng ta thăng hoa. Quan trọng là áp dụng được tinh thần Tứ Thánh đế trong cuộc sống, lần được giải thoát. Nếu chỉ học trên lý thuyết và giảng dạy suông, chẳng khác gì ngoại đạo.

Chính vì vậy, trong pháp hội này, Đức Phật dạy chúng ta phải có cách nhìn đời theo Phật, Bồ tát và Thánh hiền; không nên nhìn theo cách của tà giáo, hay của người còn ở trong sanh tử luân hồi. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật cũng nhắc rằng muốn giải thoát phải có cái nhìn của người ở trong tam giới đã ra khỏi tam giới; nghĩa là không còn bị thiên nhiên và xã hội chi phối. Thật vậy, chúng sanh ở trong ba cõi không có sanh tử, nhưng họ nhận lầm có sanh tử và trôi lăn trong sanh tử, nhận lầm có khổ đau và sống với khổ đau. Đức Phật thương xót chúng ta, Ngài mới xuất hiện trên cuộc đời để chỉ dạy cho chúng ta nhận chân được sự thật như vậy.

Ngày nay, bước theo dấu chân Phật, chúng ta thực sự nhận ra điều này hay chưa. Nếu đã nhận ra ý Phật dạy mà vẫn thấy buồn phiền, vẫn than thân trách phận, là còn đứng ở vị trí chúng sanh, chưa thấy giống Phật, không giải thoát.

Đức Phật chia ra ngũ nhãn hay năm cách thấy khác nhau. Thấy theo phàm phu là thấy theo tham vọng; thấy theo tà đạo là thấy theo sự hơn thua, phải trái. Hai cách thấy này khiến họ ở mãi trong sanh tử. Đức Phật gợi nhắc ý này trong kinh Pháp Hoa rằng các loài hung hãn sát hại nhau, nhưng chúng cũng không được lợi lạc gì. Thấy theo Nhị thừa thì không có gì an ổn trên cuộc đời, nên họ chán sợ, muốn thoát ly. Pháp nhãn của Bồ tát cao hơn, thấy sanh tử không thật, chỉ là ảo giác. Bồ tát giáo hóa chúng sanh, giúp họ thấy đúng và thoát khỏi sanh tử như Bồ tát. Và Phật nhãn hay cái thấy theo chư Phật mười phương thấu suốt ngọn nguồn và diễn tiến của muôn pháp trong vũ trụ. Vì vậy, không có gì trở ngại được chư Phật. Điển hình là Đức Phật Thích Ca hiện hữu trên thế gian như bao người, nhưng tất cả ngoại đạo và người ác thời bấy giờ không thể hại được Ngài. Đức Phật quả là một bậc toàn giác và toàn năng.

Tên của pháp hội là Hư Không Mục nói lên ý mà Đức Phật muốn dạy chúng ta là cách thấy xuất thế gian của người đắc đạo, là thấy mọi việc như hư không. Hư không bao gồm những gì vĩnh hằng hay chân lý. Chúng ta tu hành cũng để từng bước đạt đến sự thấy biết chân tuyệt đối.

Mở đầu pháp hội, Đức Phật ngự ở Đại Bảo Phường Đình nằm giữa cõi Dục và cõi Sắc, hay giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Thông thường, chúng ta thường phân ra thế giới hữu vi, vô vi, hữu tình, vô tình, hữu hình, vô hình. Đó là sự nhận thức của con người thường phân chia hai thế giới đối đãi nhau.

Thế giới chúng ta đang sống là hữu hình. Thế giới hữu hình không hằng hữu, nó luôn biến chuyển từng sát na, không dừng. Từ lúc chào đời đến khi từ giã cuộc đời, thân tâm của con người thay đổi theo từng hơi thở và vạn vật bên ngoài cũng luôn thay đổi. Nhưng người ta thường tưởng lầm là mọi thứ trên thế gian này hằng hữu. Thí dụ một dòng sông chảy liên tục là do nguyên tử này kết liền với nguyên tử kia; nhưng người đời tưởng là dòng sông đứng yên hay muôn đời không thay đổi. Hoặc những người nghe pháp trong giảng đường ngày hôm qua đã vắng bóng ngày hôm nay. Loài người cũng như muôn sự, muôn vật tuần tự đổi thay trong cuộc sống. Với bản chất của vạn vật luôn thay đổi, Đức Phật dạy tướng sanh diệt, biến đổi, vô thường. Chỉ có sự đổi thay là không thay đổi, không có gì hằng hữu, để phá bỏ sự chấp thường của chúng ta.

Muốn chỉ chân lý, Đức Phật phải đưa chúng hội vào thế giới nằm giữa hữu và vô, ở đây gọi là giữa Dục giới và Sắc giới, hay giữa chân và tục, giữa Niết bàn giải thoát và sanh tử khổ đau. Chúng ta tu hành, nhưng chưa phải là La hán giải thoát mà cũng không phải là người đau khổ ở trần gian, mới nhìn thấy người tu không phiền não và thấy người thế gian từ vua chúa cho đến ăn mày đều khổ. Chúng ta đứng ở giữa mới thấy vậy và chọn hướng đi của Hiền Thánh, thì dứt khoát phải đi tới mới đạt kết quả tốt. Chọn hướng đi, mà không đi thì không thể nào đến Bảo sở.

Phật giáo không phải Chân đế, không phải Tục đế, nhưng là Nhị đế dung thông. Thật vậy, nếu chúng ta đi vào con đường xuất thế, không dính líu đến cuộc đời, không làm lợi ích cho người, thì bị xã hội ghép vào tội ăn bám và Phật giáo cũng không thể tồn tại. Nhưng nếu lăn xả vào đời, làm tất cả việc và từ đó tham sân nổi dậy, mất đạo hạnh, thì Phật giáo cũng bị tiêu diệt. Không có trí tuệ, dễ ngộ nhận từ sai lầm này đến sai lầm khác.

Đức Phật muốn nhắc các Tỳ kheo tinh thần Trung đạo đệ nhất nghĩa, chấp vào pháp nào cũng không đúng. Phải tùy duyên hành đạo, giáo hóa chúng sanh để được phước đức và trí tuệ cho mình và người.

Ngoài ra, còn một ý nữa mà Đức Phật muốn đưa chúng hội vào thế giới ở giữa cõi Dục và Sắc. Nhớ lại sau khi Đức Phật lập giáo khai tông ở Lộc Uyển, đạo Phật bắt đầu thành hình. Tuy lúc bấy giờ chỉ có năm anh em Kiều Trần Như, nhưng họ đều đạt quả vị Hiền Thánh, Đức Phật mới bắt đầu truyền đạo. Điều này gợi cho chúng ta suy nghĩ rằng phải đắc đạo mới có đạo để truyền bá lợi ích cho người. Đắc đạo thì làm gì cũng là đạo; chưa đắc đạo, nói nhiều cũng không ai nghe. Quý Thầy ngày nay nên cẩn thận, đừng để lạc vào một trong hai thái cực; một là chỉ theo đuổi bằng cấp, hai là từ bỏ học vấn, theo con đường vô vi trở thành gỗ đá. Cả hai cách tu này đều không phải đạo Phật.

Trong pháp hội này nói về một số ngoại đạo quay trở lại theo Phật đạo, họ thuộc đủ thành phần xã hội. Họ không đắc đạo, không có trí tuệ, vì chỉ tu tập tùy theo cảm tính của con người, theo truyền thống sai lầm. Trí Giả gọi cách tu hành ấy là cuồng hoa vô quả, là nhiều người tu, nhưng không ai thăng hoa được tri thức và đạo đức.

Từ ngoại đạo quay về Phật đạo, họ còn mang theo quán tính sai lầm. Thí dụ tu Thiền theo Phật, nhưng chỉ được một lúc, họ cũng rơi vô pháp Yoga, hay trở thành củi mục than nguội. Hoặc người ở phái lý luận thì thường so sánh ngoại đạo với Phật đạo, thấy cái hơn thua là đã rơi vào vọng thức, không thể đắc đạo.

Phật đưa ra pháp giải thoát trong pháp hội này nhằm vào đối tượng là một ngàn hai trăm đệ tử từ ngoại đạo mới nhập môn, gồm một ngàn đồ đệ của ba anh em Ca Diếp, một trăm người ngoại đạo theo Xá Lợi Phất và một trăm đệ tử của Mục Kiền Liên. Riêng năm mươi thanh niên của trưởng giả Da Xá đến với Phật bằng cả tâm hồn trong trắng. Họ được ví như tờ giấy trắng, Phật muốn nhuộm màu gì cũng được. Trong khi một ngàn hai trăm người xuất thân từ ngoại đạo đã trải qua quá trình tu theo ngoại đạo, được ví như tờ giấy đã có màu, khó nhuộm màu khác, chỉ còn có cách nhuộm đen. Nói cách khác, giáo hóa người xấu trở thành người tốt không đơn giản. Không đủ phước đức mà độ họ là tự chuốc họa vào thân.

Nhiều Ni sư xây chùa rồi gặp ai cũng cho tu, rất nguy hiểm và lại than với tôi rằng gặp đệ tử bất trị. Chỉ vì vô minh, tiếp Tăng độ chúng, không thấy trước người có tư cách xuất gia mới tạo nên nghiệp chướng khổ đau. Theo tôi, tu hành đến mức độ nào mới nên nhận đệ tử và cho xuất gia. Tôi giới hạn chúng đệ tử xuất gia, vì biết họ không có điều kiện trở thành tu sĩ.

Số người theo Đức Phật xuất gia thực sự có tâm hồn ngoại đạo, chuyển hóa họ theo Phật pháp không dễ chút nào. Riêng chúng ta cho giới ca sĩ đi tu thì họ cũng mặc áo lam và tiếp tục ca vọng cổ. Người có sẵn máu văn nghệ hay kinh doanh mà cho họ mặc áo tu, chúng ta sẽ có Thầy nghệ sĩ, Sư cô kinh doanh. Tôi quan sát thấy gốc thế nào thì phát triển theo thế đó.

Ý này được Phật dạy rằng chúng ta phải thấy rõ căn tánh của người là Đại thừa hay Tiểu thừa, Quyền thừa. Chỉ có ba hạng người này, chúng ta cho xuất gia được thôi, dứt khoát là vậy. Có căn tánh ngoại đạo vào chùa dễ làm lây nhiễm chúng. Thấy nhà sư kinh doanh hay văn nghệ, tôi cảm thấy buồn. Cư sĩ làm được việc đó. Ta khoác áo tu giải thoát phải thể nghiệm nếp sống giải thoát. Việc xây chùa, bố thí, cúng dường, v.v… được Phật giao cho quốc vương, vương tử, đại thần… Xuất gia làm Sa môn có việc của người tu và làm tròn bổn phận của Tỳ kheo, Tỳkheo ni, thì các cư sĩ sẽ làm rất tốt việc hộ đạo của họ. Ta không làm tốt việc của người tu, nhưng làm việc của cư sĩ, là phá hỏng cả việc của ta và của cư sĩ.

Gốc ngoại đạo, nhưng mặc áo Sa môn, nói và làm theo ngoại đạo là hơn thua phải trái, đòi phân chia quyền lợi trong Tăng đoàn. Như vậy, chắc chắn đánh mất tư cách của người tu và đưa đến sự phân hóa trong chúng. Người chân tu phát Bồ đề tâm, vì quyền lợi chung của đạo mà phục vụ Tăng chúng và Giáo hội, họ được giải thoát. Điều này dễ thấy, khi khó khăn thì không có tu sĩ giả, chỉ có người thật tu. Lúc đầy đủ quyền lợi thì hàng tu giả xuất hiện.

Giáo đoàn của Phật có nhiều ngoại đạo, cũng bị phân hóa. Phật chuyển hóa được họ vì Ngài có huệ, nhìn thấy chính xác, biết được tất cả. Thật vậy, sự hiểu biết của Phật không ai hơn được. Ngài có khả năng dập tắt mọi lý luận của ngoại đạo. Xá Lợi Phất là đại Luận sư bậc nhất của ngoại đạo còn phải chấp nhận Phật làm Thầy, thì những người thấp hơn coi như không đáng kể.

Về bùa chú, không ai hơn Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp, nhưng Phật độ được ông và hàng phục được một ngàn đệ tử của ông trở thành đệ tử Phật. Ông là quốc sư của Bình Sa vương, có một ngàn đệ tử thời đó không phải chuyện nhỏ. Phật đến hàng phục ông, trong kinh ghi rằng ông sắp đặt cho Phật vào tu trong hang rắn hổ mang để bị rắn cắn chết. Nhưng sau cùng, rắn không hại Phật, lại nằm phủ phục xung quanh Ngài, thì làm sao mà ông không nể Phật. Người đắc đạo, thực tu thực chứng sống bình dị, nhưng có sức thuyết phục hoặc có khả năng kỳ diệu, khó giải thích, gọi là pháp bất tư nghì sanh diệt. Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp quy ngưỡng Phật là vậy, trí tuệ và năng lực của Phật siêu việt đã cảm hóa ông.

Hoặc Tổ Huệ Đăng ngộ đạo với Hòa thượng Hải Hội. Ngài vào rừng sâu không có người, không có phiền não thế tục quấy rầy và không bận tâm đối phó với những thứ phiền não vô lý. Ngài vào hang Bạch Hổ tu, không cần ăn uống, không cần quyền lợi, vẫn sống khỏe mạnh. Và ra khỏi hang, hảo tướng giải thoát hiện ra và trí thông minh lạ thường. Tuệ giác và năng lực siêu tuyệt là hai điều kiện để giáo hóa chúng sanh dễ dàng. Chưa có hai tiêu chuẩn này, hành đạo khó thành công.

Hoặc Tổ Huệ Năng Thiền định trong hang, sáu căn thanh tịnh. Ngài phát huệ, dùng ngọn đèn huệ rọi vào cuộc đời thấy sự vật đúng như thật và được nhiều người nể phục theo tu học. Lúc ấy, có đủ thành phần tìm đến thì vấn đề được đặt ra.

Thật vậy, có thể nói hàng tà định, tà đạo khó đi vào Phật đạo. Kinh nghiệm riêng tôi đã thấy rõ ý này. Xưa kia, ở Phật học đường Nam Việt có những người gốc là Thầy cúng hay đồng bóng, bói toán. Một khoảng thời gian sau, họ cũng chuyên xem sao, coi bói. Việc tu học, thâm nhập giáo lý để đạt quả vị theo Phật, họ không thể làm nổi. Hòa thượng Thiện Hòa đành giao cho họ đi cúng. Đi cúng thì có tiền và xài tiền, nên cũng không thể học và tu. Hoặc có Thầy coi tay, coi tướng, kiếm được nhiều tiền và về sau họ hoàn tục, làm thầy bói, không tu nữa.

Ngoại trừ những người có căn lành mới đi sâu vào giáo nghĩa, mới gặp Phật, Bồ tát, Thánh Tăng, không phải gặp tà ma quỷ quái. Có được sự tương giao với thế giới tâm linh, mới nhận được lực gia bị của Phật, Bồ tát, Thánh Hiền và tâm trí mới sáng ra, thấy biết việc đúng đắn và làm đúng. Nhưng số người đi đúng hướng này rất ít, mà rơi vào tà ma thì nhiều; chúng ta cần phải cân nhắc.

Thời Đức Phật tại thế, Ngài là bậc đại trí biết rõ tâm trí của hàng ngoại đạo theo Ngài. Vì vậy, Phật căn cứ vào tâm lý chuyển biến của đệ tử mà thay đổi pháp tu tương ưng cho họ. Ngài hướng dẫn trực tiếp tâm linh, giúp họ xóa bỏ thói quen sai lầm của ngoại đạo và thăng hoa theo Phật đạo.

Nhưng ở thời kỳ chúng ta, không có bậc đắc đạo, nên chân lý dễ bị mờ tối. Thật vậy, phần nhiều người có học dễ bị kẹt trong sách vở, không nắm bắt được chân lý; vì chân lý thì phải đi thẳng từ bản tâm của Thầy qua bản tâm ta. Họ không mở được tâm linh là lý do đó. Học thì kẹt sách và nhìn thân giáo sư, thì cũng không thấy giải thoát; nên họ rơi vô lý thuyết suông. Theo tôi, tinh ba của Đức Phật truyền trao không phải là những gì mà chúng ta nắm bắt được bằng suy luận, hiểu biết theo vọng thức. Việc quan trọng của người tu hành là phải xả bỏ vọng tưởng điên đảo. Từ đó, sử dụng ngữ ngôn, văn tự chỉ là phương tiện tạm mượn để dạy đạo. Đạo chỉ có khi có sự tu chứng. Qua ngôn ngữ, chúng ta nhận ra hình tướng của Phật, của Tổ sư và sự thực chứng của các Ngài.

Đối với tôi, kinh là pháp sở hành, nghĩa là nương theo kinh để tu hành, ta có được sở đắc thiết thực, mới cảm hóa được người, giúp họ an vui giải thoát. Sở đắc về kinh theo Phật đạo như vậy khác với việc các đại Luận sư theo truyền thống Bà la môn đăng đàn thuyết pháp để tranh cãi. Điển hình như Xá Lợi Phất trước khi theo Phật đã từng là Luận sư bậc nhất ở Ma Kiệt Đà. Mặc dù có tài hùng biện bẻ gẫy được mọi lý luận của các Luận sư khác, nhưng lòng ông vẫn cảm thấy bất an. Điều này dễ hiểu, vì chính những lý luận, dữ kiện tràn đầy trong tim óc đã dằn vặt ông phải khổ đau. Tuy nhiên, với tiềm thức chứa đầy phiền não như vậy, bất chợt gặp được Mã Thắng Tỳ kheo không nói một lời, Xá Lợi Phất lại cảm nhận được sức thuyết phục kỳ diệu. Đạo chính là chỗ đó. Mã Thắng đã đắc La hán, với tâm trong sạch, trọn lành của một bậc Thánh mới tác động cho tâm phân biệt, phải trái của Xá Lợi Phất dừng lại.

Trong công việc giáo hóa độ sanh, Đức Phật muốn hàng phục tâm vọng động của những người đã quen theo tà giáo, Ngài phải thay đổi tâm của họ bằng cách đưa họ lên Đại Bảo Phường Đình. Đó là thế giới không thuộc thế tục, cũng không phải vô vi để thành gỗ đá như ngoại đạo.

Trên bước đường tu, áp dụng tinh thần này, quý Thầy nên tập cho đệ tử quên hẳn các thói quen cũ, để không còn bị dính líu với ảnh hưởng xấu. Thí dụ cách ly họ với tà giáo bằng cách không cho họ đồng bóng, bói toán. Nếu thả lỏng, họ vẫn tiếp tục theo con đường tà, không thể tiến tu theo Phật đạo.

Ở đây, Đức Phật dạy rằng các Tỳ kheo tất yếu phải đi trên lộ trình giải thoát. Và muốn được giải thoát, phải từ bỏ mọi thứ của thế tục bằng cách dùng phương tiện của Phật. Có rất nhiều phương tiện. Theo tôi, phương tiện quan trọng nhất là tập trung tư tưởng một chỗ, đừng nghĩ chuyện này chuyện khác, đừng ngó qua ngó lại. Thánh đệ tử thì không lăng xăng cả thân và tâm, ngồi yên và tập trung. Phật dạy chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện; nghĩa là tập trung được thì việc gì chúng ta cũng biết và giải quyết được.

Trong Phật pháp có nhiều cách để dừng vọng tâm điên đảo. Một trong nhữngphương tiện thường được áp dụng để tập trung là cột tâm trên hơi thở, hay còn gọi là sổ tức quán, đếm hơi thở. Hơi thở ra, chúng ta biết thở ra, hơi thở vô, chúng ta biết thở vô. Hơi thở thô, chúng ta biết nó thô và làm cho nó thành nhẹ và dài. Theo kinh nghiệm của tôi, tu pháp này giúp tôi chữa được thân bệnh. Điều hòa được nhịp tim, hơi thở, ăn uống, ngủ nghỉ thì bệnh tật tự mất. Không phải đếm hơi thở khơi khơi mà đắc đạo.

Phật dạy sổ tức quán, nhưng phải kèm theo giác, quán, hỷ, lạc và định; đó là quá trình tâm chuyển biến như vậy theo pháp tu. Khi hơi thở ra vào, chúng ta biết rõ hơi thở ra vào, nghĩa là đã tập trung được, đó là giác. Sau đó, dùng lực tập trung để quán thân tứ đại, ngũ ấm và thế giới bên ngoài, xem sự tương quan tương duyên tồn tại của chúng. Nói cách khác, chúng ta có đề tài và bắt đầu suy nghĩ thì việc mới sáng ra là quán. Đến trạng thái tiếp theo là hỷ. Nhờ biết được nguyên nhân đau khổ và nguyên nhân hỷ lạc, biết tại sao người gây sự, tại sao người cúng dường, v.v...; nói chung biết được diễn tiến của mọi việc chung quanh ta, trong đoàn thể chúng ta đang sinh hoạt..., ta cảm thấy sung sướng là hỷ. Lúc nào tâm cũng vui. Nguồn vui ấy kéo dài trong tiềm thức là lạc, thể hiện ra nét mặt và ánh mắt như luôn mỉm cười. Đạt đến sở đắc này, tâm không bao giờ dao động trước mọi sự vinh nhục, được mất của cuộc đời, lòng luôn thanh thản tự tại. Đó là thành quả tu chứng của người đắc sơ Thiền.

Là đệ tử Phật, điều quan trọng mà Đức Phật muốn nhắc nhở hàng xuất gia chúng ta rằng tối thiểu phải đắc được Sơ quả là dự vào dòng Thánh, thì từ đây về sau, đời nào cũng gặp Phật pháp. Đức Phật đã từng khẳng định rằng người đắc Sơ quả thì chỉ cần bảy đời nữa tu hành sẽ tiến đến Thánh quả, tái sanh ở nơi nào cũng gặp thiện tri thức khai ngộ, không sợ bị đọa.

Ý thức như vậy, chúng ta nỗ lực tu, ít nhất đắc được Sơ quả thì mới an tâm tiến bước trên năm trăm do tuần đường hiểm đến Bảo sở. Tuy nhiên, muốn nói cho người nghe được pháp này cũng không đơn giản, vì họ luôn chấp giữ phải trái theo thế gian, nên khó hiểu, khó tin pháp này. Vì vậy, chúng ta thấy Phật thường sử dụng thần lực. Chúng ta truyền giáo phải nghĩ đến thần lực, là thế lực siêu tự nhiên. Chưa có thế lực siêu tự nhiên, chúng ta cũng phải có thế lực của trần thế, người mới nghe. Dĩ nhiên là thế lực xuất thế gian thì dễ cảm hóa hơn và thích hợp với đạo hơn. Người có lực hơn là có sức mạnh hơn, họ mới bắt nạt được người khác. Có người không khỏe, nhưng mượn lực của người khác là lấy thế lực của quần chúng làm lực của mình thì cũng có sức mạnh; đó là người thế gian.

Xuất thế gian như Phật mà không có lực siêu nhiên, chắc chắn không chống đỡ nổi với thế lực ác của ngoại đạo. Chỉ có Phật và Bồ tát lớn mới thoát khỏi sự hãm hại của tà giáo; còn hàng đệ tử luôn bị ngoại đạo công kích, phá hại. Thật vậy, hàng ngoại đạo thời Phật tại thế quả thật kinh khủng, nhưng không làm gì được Phật, đủ biết thế và lực của Phật quá siêu tuyệt. Lịch sử cho thấy chín mươi ba ngoại đạo, dị kiến và cả ác vương không hại được mà cuối cùng phải theo Phật. Ta học Phật là nghĩ đến thế và lực siêu nhiên. Nói cách khác là học đạo Vô thượng Bồ đề để thành Phật, ra khỏi sanh tử luân hồi, thoát khỏi sự chi phối của mọi sự, mọi vật về vật chất lẫn tinh thần.

Đặc biệt trong pháp hội này, Phật cảm hóa người bằng cách mượn ngôn ngữ của chư Thiên. Trong kinh khác nói Phật đưa cành hoa sen và Ca Diếp mỉm cười vì ngộ đạo. Ở đây, Phật đưa vòng hoa lên là hoa Tứ Bảo, ý muốn nói tứ chúng có thể trở thành tốt, thành Thánh. Nhưng vì họ không tu theo chánh pháp, rơi vô hý luận, nên tâm vẫn là ngoại đạo.

Phật đưa vòng hoa thì nghe tiếng thuyết pháp của chư Thiên nói việc của Chúng hoa bay đi bốn phương và có vô số đồng tử hay Bồ tát mang đến chú Đà la ni để làm chứng tín cho Phật. Kinh gọi đó là giữ dục. Nghĩa là Bồ tát ở thế giới khác đến Ta bà thuật lại việc hành đạo của thế giới ấy cũng có tứ chúng. Và nhờ trí tuệ, đạo đức của Bồ tát mà tứ chúng cũng biết tu hành, chuyển đổi được nếp sống theo hướng thánh thiện, nên gọi là Tứ Bảo.

Ngoài ra, trong pháp hội Hư Không Mục, Đức Phật cũng dạy chúng ta chủ yếu là pháp hành. Thật vậy, vì các Tỳ kheo từ hàng Ba la môn chuyển sang Phật đạo, họ quen nói mà không làm. Phật thường rầy tánh ưa nói của họ giống như người đếm tiền giùm người khác, không được gì còn bị mang tiếng. Tu hành của đạo Phật khác với Bà la môn ở điểm đó. Nói và làm phải đi đôi, hay theo Đại thừa, làm thay cho nói. Tỳ kheo theo Phật dạy tu đúng như vậy thì tiến xa được.

Tu sĩ xuất thân Bà la môn ưa nói nhiều, thường bị mọi việc, hoặc bị người bên ngoài chi phối. Trong khi Tỳ kheo thật nghĩa là thanh tịnh, tĩnh mặc; đó là Mâu Ni Tỳ kheo lắng yên được việc bên ngoài, phát huy đúng nghĩa phần nội tâm. Còn nói thì phải quan sát, thấy cái bằng lòng và không bằng lòng; chẳng lẽ nói mà không thấy. Từ đó tâm bị sự vật lôi cuốn. Hễ nói là bị sáu trần chi phối tác động sáu căn, tội lỗi nhân đây phát sanh, trở thành ác Tỳ kheo, lục quần Tỳ kheo, nghiệp chướng Tỳ kheo. Thanh tịnh Tỳ kheo thường lo phát huy nội tâm nhiều hơn.

Chính vì vậy, khởi đầu tu của chúng ta là cách ly sáu trần. Trong sáu trần gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; quán sát cái nào dễ bỏ, chúng ta thực hành trước. Thí dụ trong sáu trần, xúc là cảm giác sanh ra do tiếp xúc của thân chúng ta, gần chúng ta nhất. Muốn tu thanh tịnh, các Thầy vào thâm sơn cùng cốc, sự vật không có, sống cách ly với mọi vật, mọi việc, mọi người. Nhờ ẩn cư, tiếp xúc ít, nên mắt thấy, tai nghe cũng ít. Vì thế sắc và thanh trần cũng dễ cách ly, bên ngoài ít tác động vào tâm. Vì lợi ích như vậy, Phật dạy Tỳ kheo nên ẩn cư, sống ở núi rừng hay cách làng xóm ít nhất năm cây số. Đi vào làng khất thực hay đi về tinh xá đều đi trên đoạn đường vắng khá dài, mắt nhìn xuống đất mà đi là cách ly được làng xóm, cũng có nghĩa là cách ly được nhãn, nhỉ căn với sắc trần, thanh trần. Về vị căn thì người tu coinhẹ việc ăn uống, có ăn hay không cũng được; không quan tâm đến ăn ngon dở.

Tỳ kheo thấy, nghe, nói nhiều thì tồn tại trong đầu pháp trần. Vì khi khất thực, có tiếp xúc; trở về núi, những điều này còn tồn đọng trong lòng là pháp trần làm cho tâm khó thanh tịnh. Điều này dễ hiểu, những gì mình không thích mà trông thấy hoặc nghe được, khi ẩn tu, nó sẽ hiện ra ngay.

Thực hiện được pháp tu cách ly, không tiếp xúc với bên ngoài thì sẽ đạt đến hướng nội bên trong cùng tột; trần duyên không còn tác động được ta, dù là thuận hay nghịch. Chúng ta chứng được pháp Tịnh Mục, có cái nhìn sáng suốt, trong sạch. Tỳ kheo tu sao cho cái nhìn thanh tịnh, sáu trần không tác động được là thực nghĩa Tỳ kheo. Giỏi dởchưa biết, nhưng nhìn sự vật như người gỗ ngắm chim vẽ là Tịnh Mục; mắt đã thanh tịnh, không bị bên ngoài tác động. Nghĩa này cũng được kinh diễn tả là súc bình cho sạch. Vì nhiều đời thường tiếp xúc với vật bênngoài, nay tu cách ly, không tiếp xúc, nhưng nó vẫn còn ảnh hưởng ta. Phải siêng năng sám hối để đạt tâm thanh tịnh là Tịnh Mục, không thấy theo ham muốn, bực tức. Ham muốn những cái mình ưa thích và bực tức những cái không ưa sẽ dẫn đến cái thấy trên căn bản phiền não. Người thế gian tham giận là bình thường. Người tu mà còn như vậy là đáng xấu hổ. Trên bước đường tu, bằng mọi cách giữ được tâm thanh tịnh mới là Tịnh Mục Tỳ kheo. Riêng tôi, khi thấy điều gì bực bội thì tôi tự xấu hổ vô cùng, vì nghĩ mình chưa xứng đáng là Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tịnh Mục Tỳ kheo quán sát bên ngoài vắng lặng, không để hoàn cảnh chi phối và được nội tâm thanh tịnh rồi, thì vào Tăng đoàn coi nhà ngũ uẩn có thanh tịnh hay không. Kinh A Hàm diễn tả ý này rằng "chạy đến xóm trống không”. Nhà ngũ uẩn trống không là Tỳ kheo thanh tịnh và Tỳ kheo thanh tịnh thì ở tinh xá. Chúng ta ở tinh xá mà còn bất hòa thì thật xấu hổ và người không trong sạch thì phải ra đi, dù không đuổi. Muốn ở tinh xá phải tịnh tâm, tịnh hạnh trước là bước đầu, "tịnh” quan trọng.

Tịnh Mục nhìn sự vật hay tiếp xúc cách nào đó mà tâm dửng dưng. Tôi diễn tả là trần duyên thuận nghịch, tâm không thiết. Có Thầy nói với tôi rằng luôn nghĩ đến chết thì họ cũng không quan tâm đến sự vật, bỏ nó dễ. Thí dụ các Thầy xây được chùa, phải gìn giữ, tìm người thừa kế…; nói chung phải lo lắng đủ thứ, nhưng sự việc lại không theo ý ta muốn.

Phật dạy chúng ta phải thấy theo nhân duyên. Kinh nghiệm tôi thấy cái gì muốn là không được. Cắt bỏ cái muốn, tùy nhân duyên làm đạo, mới được nhẹ nhàng. Thuận nghịch, tốt xấu cũng là duyên; nhân đó chúng ta luyện không tha thiết với nó. Vì vướng mắc với nó, dù tốt hay xấu, chúng ta cũng đều khổ cả.

Bước đầu, Tỳ kheo phải đạt được tâm thanh tịnh; chưa được, phải sám hối cho thanh tịnh rồi mới đem pháp Phật vào lòng, chúng ta sẽ được pháp thứ hai là Pháp Mục. Tịnh Mục sanh ra Pháp Mục, là nhìn sự vật theo pháp Phật lần lần mới nhận chân thật tướng các pháp, không thấy theo giả tướng hay tham vọng. Thâm nhập Phật pháp, thấy sự vật diễn ra theo đúng cái thấy của chúng ta, thì lần chứng từ sơ Thiền đến tứ Thiền.

Pháp căn bản của Phật dạy là Tứ Thánh đế, chúng ta phải thâm nhập pháp là chính. Ý thức cuộc đời là khổ, chúng ta cắt đứt nguyên nhân khổ, thì việc không tác động được. Muốn cắt đứt nghiệp nhân, phải tu Đạo đế. Đó là căn bản Phật dạy phải luôn sống trong ba mươi bảy Trợ đạo phẩm. Nói cách khác, chúng ta vui với đạo pháp, nên không thấy sự vật bên ngoài, chỉ thấy pháp Phật.

Vui được với pháp Phật, lòng chúng ta lúc nào cũng vui. Tôi thấy nét mặt của các bậc chân tu lúc nào cũng như mỉm cười. Thể nghiệm từng việc trong cuộc sống, thấy lời Phật dạy chí lý, áp dụng rất hay. Áp dụng được, ta thấy đây là lẽ sống; nên vui và sống với pháp, thấy theo Phật, giải theo Phật, không giải theo sự nhận thức của ta hay theo đời. Nhìn theo đời thì thấy vô lý, nhưng hiểu đạo thấy điều vô lý trước kia thật là có lý. Thấy theo đời thì trả quả báo không lường. Tỳ kheo thấy sự vật theo đời, đáng xấu hổ.

Phật dạy thấy cuộc đời là khổ, đương nhiên ta có ý thoát ly. Kế đến là tìm ra nguyên nhân khổ mới tránh né. Nguyên nhân khổ là tham, sân, si hay vô minh. Nó là nguồn gốc tội lỗi. Thấy theo Phật là thấy người nói xấu ta cũng đúng; tại sao họ lại nói xấu ta mà không nói xấu người khác. Thấy vậy để ta sửa lần cho đến khi họ không chỉ trích được là tu. Trong đời này, nghiệm cho cùng ta không có lỗi; nhưng đời trước, ta và họ đã có vấn đề. Phật dạy phải quán sát ba đời nhân quả. Phật cho biết không phải đời này Đề Bà Đạt Đa mới chống Ngài. Từ khi Phật phát tâm Bồ đề cho đến thành Phật, trải qua vô số kiếp, đời nào Đề Bà cũng chống đối Phật. Kiếp nào cũng chống là biết rõ ân oán, phân ra hai thái cực, Phật và ma. Thiết nghĩ hai Pháp sư cũng chỏi nhau, vì pháp tu khác nhau, thấy khác nhau. Từ cái thấy không đồng và tệ hại hơn nữa, có tâm ganh tỵ thù hiềm, nên thù oán không bao giờ hết.

Tỳ kheo thanh tịnh tìm cách vô hiệu hóa sự chống phá của ác ma bằng cách làm ngược lại. Nó nói chúng ta tham, thì chúng ta hành bố thí, là vô hiệu hóa được. Cứ như vậy thay đổi cuộc sống ta và theo Phật, cuối cùng để họ tự trả lời, ta không bao giờ đính chính. Tự sửa mình thì vô hiệu hóa được sự bịa đặt của ác ma. Quý Thầy đừng hơn thua trên lời nói.Hơn trên lời nói, nhưng phiền não còn là tự hại mình. Vì từ vô minh khởi tham vọng, mới có tham, sân, si. Ta không tham vọng thì không sân, việc cũng dễ.

Thuở nhỏ nhà tôi nghèo, nên tôi rất ghét nhà giàu, nghĩ họ xấu, bóc lột. Từ tâm ác này, có ý thức chống đối, nên quả báokhông lường, vì nghèo mà chống giàu thì khổ lắm. Thay đổi cái nhìn theo Phật pháp là biết đời trước mình không có phước, ăn nhiều làm ít. Thay đổi cái nhìn như vậy, tôi thay đổi cuộc sống, cố làm nhiều, ăn ít để cònthặng dư phước là thực tế phải vậy. Như vậy, nhìn theo Phật, tâm oán hận không sanh ra. Nhìn theo thế gian, dễ oán tức. Lúc còn trẻ, tôi hay bực tức, nhưng phát hiện thấy mình là ác Tỳ kheo, không dám nữa. Trong Phật học đường, thường chọn Thầy có ngoại hình dễ coi, vui vẻ, tiếp xúc bặt thiệp để giao việc tiếp khách; làm sao chọn người hay gây được. Không được chọn, mình lại sanh ý ác là họnịnh bợ; bần khổ đa oán là nghĩa này. Người có phước mới làm được. Việc chọn thị giả cũng vậy, Hòa thượng chọn người hiền lành, dễ thương, siêng năng, biết việc; mình cục mịch, thô lỗ, hầu Thầy coi sao được. Thấy họ hầu Thầy, được đủ thứ, nên mình sanh tâmganh ghét và nói xấu họ.

Tôi luôn nhớ hai chữ "Túc nghiệp” để tự sửa mình. Sanh trên cuộc đời này, chúng ta nghèo đói, bệnh hoạn, ngu dốt, nên không dùng vô đâu được, không có chỗ nào ta dung thân được. Thực chất tu là tìm chỗ dung thân, tìm việc làm. Không có việc gì làm để đại chúng chấp nhận, thì giống như thây ma trong bể Phật pháp.

Không làm mà hưởng của Tăng, ta tổn phước lần, chắc chắn sau này không trở lại sống với Tăng chúng được. Tôi thương xót những Thầy ra đời, họ hơn ta, nhưng vô tình làm ác Tỳ kheo, phải ra khỏi nhà Phật pháp. Kinh nghiệm tôi ở đâu cũng đóng góp việc làm và việc càng tốt, lợi ích, đại chúng càng thương.

Phải có tư cách thanh tịnh Tỳ kheo là Tịnh Mục, không hơn thua phải trái. Và từ Tịnh Mục trở thành Pháp Mục Tỳ kheo, thấy theo Phật, sống theo pháp, thể hiện đầy đủ trong cuộc sống những gì Phật nói trong kinh điển. Người thấy ta, nghĩ đến ta là nhớ đến Phật, đến pháp, nhận ra sự cao đẹp của đạo. Pháp Mục Tỳ kheo sống trong pháp Phật lâu ngày có cái thấy chính xác, biết rõ mọi việc và làm vô số việc hữu ích cho người, được người kính quý, trở thành Thánh Mục Tỳ kheo. Thánh Mục Tỳ kheo chỉ cho Phật. Kiều Trần Như là Tịnh Mục Tỳ kheo không nói, chỉ chuyên tu pháp hành, thành tựu đức hạnh đệ nhất, thân tâm hoàn toàn thanh tịnh.

Pháp hội Hư Không Mục giới thiệu Phật và Thánh chúng hiện hữu ở Ta bà với chúng sanh nhiều tệ ác. Nhưng các Ngài có được Ngũ nhãn, Tam minh, Tứ trí, Lục thông, v.v… nên trở thành chỗ nương tựa của Bồ tát mười phương. Kinh nói Bồ tát tập hợp về học pháp Hư Không Mục và chư Phật mười phương đều đem Tịnh Mục, Pháp Mục Đà la ni, Thánh Mục Đà la ni dâng cúng cho Phật.

Kinh ghi rằng chư Phật mười phương đồng tình hay giữ dục bằng cách bảo các vị Bồ tát mang Đà la ni đến trao cho Phật Thích Ca. Đà la ni là sự hiểu biết chính xác. Mỗi vị Phật giữ dục, là tặng cho Phật Thích Ca một Đà la ni. Tất cả Đà la ni do Phật mười phương gửi tới nói lên hoàn cảnh này, đối với người này, việc này, thì nên xử sự như thế nào là tốt nhất.

Phật Thích Ca tiếp nhận Đà la ni của Phật mười phương, thấy được trần lao nghiệp chướng của họ là gì và Ngài đối trị được tất cả những thứ ác xấu ấy. Điều này quả thực khó lắm. Chúng ta thử nghĩ xem ngày nay trong Giáo hội có bao nhiêu hệ phái, mỗi chùa có bao nhiêu Tăng. Mỗi vị Tăng lại hồi vầy hồi khác..., việc quản lý chư Tăng không dễ chút nào.

Đọc kinh Bảo Tích thấy ý này, tôi ngán sợ. Trong thành phố cả ngàn Tăng Ni, hàng ngàn ngôi chùa mà lúc nào cũng thưa kiện. Nhớ đến chư Phật giữ dục, trao Đà la ni; nhưng muốn được như vậy, phải giữ tâm thanh tịnh, đừng để phải trái hơn thua kéo chúng ta vô trần lao. Lấy Phật pháp rửa sạch trần lao là cách tuyệt vời nhất. Theo kinh nghiệm hành đạo của riêng tôi, khi gặp việc rối rắm quá, tôi thường bỏ mặc, tạm thời quên hết. Và tôi trì tụng kinh Đại thừa, tĩnh tâm, nghĩ về Phật. Thật vậy, khi việc phức tạp quá, có nghĩ đến cũng không thể giải quyết nổi, vì còn chịu ảnh hưởng dây chuyền. Giải quyết sai chẳng những hư việc còn làm cho vấn đề rối tung thêm. Nhưng khi tôi bỏ mặc thì lại thấy vấn đề sáng lần ra và việc tự hóa giải! Tôi chỉ giữ tâm thanh tịnh thì việc sẽ đâu vào đó.

Trên bước đường tu, thiết nghĩ theo lời Phật, giữ tâm thanh tịnh thì cảnh sẽ tịnh. Tâm động, cảnh tịnh không bao giờ có được. Gặp việc rắc rối, cứ tĩnh tâm một lúc thì việc tự tốt. Còn thưa kiện, cố giải quyết cho xong, sẽ có vấn đề khác nảy sanh. Rõ ràng trong mối tương quan tương duyên chằng chịt của thế giới tương đối này luôn luôn có sự bất hòa; giải quyết cách nào, họ cũng không chịu.

Phật mười phương đồng tình với Phật Thích Ca, nói lên ý nghĩa có người đồng tình với sự khó khăn của ta, ta cũng trút được gánh nặng. Tất cả Phật mười phương giữ dục đều nói rằng Ta bà và thế giới của các Ngài cũng giống như nhau, đệ tử của các Ngài và đệ tử của Phật Thích Ca cũng dữ như vậy... Và chỉ giải quyết bằng Đà la ni, là có người sáng suốt cảm thông và góp ý chân tình, chúng ta nhẹ nhõm được.

Phật mười phương giữ dục, cho chú Đà la ni, nghĩa là nói về kinh nghiệm tu hành của các Ngài cũng đã bị những chướng nạn như vậy, nên cảm thông với Đức Phật Thích Ca. Và Phật mười phương chỉ dạy Ngài những biện pháp giải quyết tốt đẹp mọi việc. Riêng chúng ta, chưa được Đức Phật trao Đà la ni thì theo tôi, chúng ta tìm trong kinh, trong Thiền định, sẽ được Phật giữ dục, nghĩa là hộ niệm, tâm trí chúng ta tự sáng lên. Giặc đến Bồ đề phải tan là vậy. Một khi cánh cửa Phật đã mở ra, ta y theo đó mà làm, chắc chắn được giải thoát.

Phật Thích Ca dạy rằng Phật này nói thế này, Phật kia nói thế kia, nghĩa là Ngài ứng theo trần lao của chúng sanh mà giải. Còn thấy toàn trần lao đáng sợ, làm sao dám ở đây tu. Kinh Hoa Nghiêm cũng nói khi Phật Thích Ca thành Vô thượng Bồ đề, Ngài sợ thế giới tệ ác của Ta bà, liền muốn nhập Niết bàn. Nhưng chư Phật mười phương đã an ủi Ngài, khiến Ngài xuống Lộc Uyển thuyết pháp độ sanh. Phật Thích Ca giáo hóa tùy nghiệp. Gặp người căn tánh Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, thì Ngài theo đó nói pháp tương ưng, triển khai thành Tam thừa giáo.

Chúng ta thường nghĩ lầm rằng người nào cũng là Phật. Ăn cướp thì phải thấy nó là ăn cướp, thấy nó là Phật thì tai hại vô cùng. Phật mười phương bảo các vị Bồ tát đến Ta bà, phải hiện thân Đế Thích, Kim Cang hay Chuyển luân Thánh vương...; nói chung là những người có thế lực nhất để trợ giúp Phật Thích Ca. Đó là giữ dục cho Phật Thích Ca. Không phải vị nào cũng mang hình thức xuất gia, ôm bình đi khất thực.

Thể hiện tinh thần này là các nhà sư của phái Thiếu Lâm không phải là người yếu đuối, nhu nhược. Võ nghệ của họ khiến những tên cướp khét tiếng cũng phải nể phục, không dám đến chùa cướp của. Phật Thích Ca hiền lành vô cùng, nhưng không ai hại Ngài được, vì đã có Đế Thích, Phạm vương. Thực tế là những ông vua mạnh như Tần Bà Sa La, A Xà Thế hay vua Ba Tư Nặc... hết lòng kính trọng và cúng dường Ngài. Đức Phật Thích Ca tạo được những thành quả lớn lao không nghĩ nổi như vậy mới thay đổi được tâm tánh cao ngạo của hàng ngoại đạo và hàng trần lao nghiệp chướng Tăng theo Ngài.

Áp dụng ý này trong thực tế hành đạo, theo tôi, Phạm vương tiêu biểu cho hàng trí thức trong xã hội; Đế Thích tiêu biểu cho người có quyền uy nhất; Kim Cang là những người hộ pháp đắc lực nhất; Chuyển luân Thánh vương là người có được quần chúng ủng hộ. Có được bốn thế lực này ủng hộ, chúng ta sẽ hóa giải được việc làm ác của thành phần trần lao nghiệp chướng, họ phải tùy thuận theo chúng ta.